Số 145

Ngày 1 tháng 5 năm 2014

www.GiaoMua.com

Nguyệt San Giao Mùa
P.O.Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA

GiaoMua@hotmail.com


Thư Ngỏ



Thưa bạn,

Như nhiều bạn đọc với tuổi đời năm, sáu bó hay hơn, nhiều người trong chúng ta vẫn giữ mãi cho mình hình ảnh kỷ niệm của mùa Xuân năm bảy lăm.

Những ngày cuối tháng Tư lại đến, xin san sẻ với quí bạn những hoài cảm cuối cùng cho một mùa Xuân của riêng tôi. (xin xem bài Cuối Cùng Cho Một Muà Xuân dưới đây)

Thân chúc an vui,

Phan Thái Yên
Ban Biên Tập Giao Muà

Mục Lục

Bài vở trên Giao Muà là do các tác giả gửi đăng và Giao Muà không chịu trách nhiệm về nội dung. Muốn xin trích đăng lại, xin liên lạc với GiaoMua@hotmail.com.

I . Thơ _______________________________________________________________________

1. Gĩa Biệt Dấu Yêu ______Tuyền Linh
2. Mấy Dòng Thương ______Hàn Thiên Lương
3. Ban Mê Ơi ______ Lê Miên Khương
4. Dáng Em Mùa Hạ Cũ ______Triều Phong Đặng Đức Bích
5. Ăn Theo ______ Hồ Chí Bửu
6. Tháng Ba Còn Sớm, Tin Mất Nước ______ Nguyễn Đông Giang
7. Đôi Mắt Buồn. ______ Hoàng Yến
8. ...Ta Trở Về ______Jacaranda
9. Về Huế ______Quỳnh Đỏ
10. Thi Khúc Say Tình ______Phan Tưởng Niệm
11. Chuyện Các Vì Sao ______Chu Thụy Nguyên
12. Bên Anh ______ Nguyễn Thị Thanh Dương
13. Lặng Thầm ______ nguyênHOANG
14. Những Gì Cùng Anh ______ Vành Khuyên
15. Bao Giờ ______ Trần Thành Mỹ
16. Tháng Tư Muối Gừng ______ Trần Huy Sao
17. Hương Trầm ______Sông Trà
18. Ngày Lễ Mẹ ______Vân Hà
19. Hồn Thiêng Sông Núi ______ Song An Châu ­­ ­ ­­ ­
20. Hư Vô ______Nguyệt Vân
21. Xa Lâu Ta Nhớ ... ______ TT Hiếu Thảo
22. Quê Hương Còn Đó Nỗi Buồn ! ______ DuYên
23. Thuở Ban Đầu ______ Trần Đan Hà
24. Đêm Lữ Thứ Tình PHI LONG: Nửa đen nửa trắng ______ Tình Hoài Hương

II . Văn _______________________________________________________________________

1.Mẹ Vắng Nhà Một Tuần ___________ Nguyễn Thị Thanh Dương
2. Hiến Chương Tình Yêu (truyện dài nhiều kỳ) ___________ Tình Hoài Hương
3. Vực Sâu ___________ Vành Khuyên
4. Căn Nhà Sau Cửa Biển (truyện dài) ___________ Phan Thái Yên
5. Cút Bắt Trò Chơi ___________ Hai Hùng SG
6. Cuối Cùng Cho Một Mùa Xuân ___________ Phan Thái Yên
7.Viết Cho Con ! ___________ _Ximuoi_(NXVK)

III . Những Bức Thư Tình...________________________________________________________________

1. Thư Tình Mỗi Tháng _______________________________ DHH

IV. Trả Lời Bạn Đọc__________________________________________________

1. Nhắn Tin/Trả Lời Bạn Đọc _______ Ban Biên Tập

I . Thơ __________________________________________________

1. Gĩa Biệt Dấu Yêu  


Xin giã biệt những ngày xưa tháng cũ
Những dại khờ nuôi dưỡng giấc mơ hoa
Những bạn bè suốt năm tháng bên ta
Những Trường, Lớp, Thầy Cô đầy yêu kính

Xin giã biệt những vụng về câm nín
Tình đơn phương thầm lặng tóc đuôi gà
Những con đường tan học chim hót ca 
Những tiếng guốc rộn ràng nghe thao thức

Xin giã biệt bước chân ai đi trước
Ai theo sau đếm từng nhịp tim mình
Muốn nói nhiều, nhưng mãi cứ lặng im
Nghe khắc khoải những nỗi niềm xa vắng

Xin giã biệt mảnh sân trường loang nắng
Giờ ra chơi dáo dác mắt kiếm tìm
Hồn dật dờ thấp thỏm cánh thư yêu
Muốn trao gởi, sợ bạn cười lại giấu

Xin giã biệt tấm bảng đen yêu dấu
Đã bao năm cõng lời giảng Cô, Thầy
Những mặt bàn ghi khắc lời gió mây
Đang thao thức những ngày hè trống vắng

Xin giã biệt những Thiên Thần áo trắng
Túm me chua, gói muối ớt hộc bàn
Chuyền tay nhau lén lút sợ thầy la
Miệng hít hà che mồm nghe thầy giảng

Xin giã biệt sáng mùa thu ảm đạm
Buổi tựu trường thiếu vắng bóng em yêu
Tình đơn phương nên cảm xúc thật nhiều
Ai biết được thời gian không phai nhạt

Xin giã biệt những dấu yêu trong sáng
Những hành trang quý báu bước vào đời
Ta ra đi lòng muốn nói vạn lời
Trái tim nhỏ mà khoảng trời quá lớn

Ta trang trọng xếp vào ngăn ký ức
Rõ từng trang theo thứ tự tuổi trời
Và lần tìm từng cảm xúc đầy vơi
Theo năm tháng trong bước đời chìm nổi

1964
                                                                
Tuyền Linh   
Mục Lục


2. Mấy Dòng Thương *tưởng nhớ nghệ sĩ Hà Thanh Chao ơi gió mãi sầu qua kẻ lá Nên thiên thu thơ nhạc vấn vương buồn Là tâm sự tự cõi lòng nghệ sĩ Cho ngàn sau rây rức những cung thưong! Theo cơn gió tiếng Hà Thanh vun vút Lên tầng cao đọng lại những sầu mây Mây tan loảng thành mưa về xứ Huế Ướt áo người xa biệt mãi từ đây! Dòng nhạc chở tiếng xưa từ thiên cổ Trĩu niềm đau chồng chất tháng năm dài Như lời kinh hướng đời vế bến giác Nhưng nhân sinh chìm mãi cõi trần ai! Nghe khúc hát Hà Thanh sầu vạn kỷ Lòng tha hương viễn xứ lệ tuôn dòng Người ra đi lặng hồn buồn tưởng tiếc Dẫu thiên thu vẫn đau xót vô cùng! Vần thơ nghẽn cung nhạc đời lỗi nhịp Đàn tương tư dạo mãi khúc đoạn trường Khách tài hoa! - kiếp người ! sao tội nghiệp! Nói gì đây?- Xin gửi mấy dòng thương! Tháng 1-2014 Hàn Thiên Lương
Mục Lục


3. Ban Mê Ơi Lần đầu tôi đến Ban Mê Đường đi đất đỏ cà phê xanh rừng Từ đâu tiếng nhạc tưng bừng Chập chờn bướm nhỏ vui mừng chào tôi Hỡi cô sơn nữ đỏ môi Đường xa bao dặm núi đồi Buôn Đôn ? Cầu treo lắt lẻo cuối thôn Có đưa tôi đến thác cồn Dray Nur ? Cơm lam gà nướng cá lăng Sông Sêrêpok lăn tăn sóng mềm Rượu cần ấm, quán nướng nem Một ngày: lạnh, ấm. Êm đềm Ban Mê Thật không: đi dễ khó về ? Từ cô tiếng hát đê mê trong lòng !

Lê Miên Khương

Mục Lục


4. Dáng Em Mùa Hạ Cũ Tóc em cột thắt đuôi gà Tan trường anh hỏi thăm nhà em đâu Nhìn sang em lúc lắc đầu Mà trong cử chỉ đượm màu luyến thương Con tim xao xuyến lạ thường Bước đi hấp tấp con đường thêm xa Tại sao anh chọc người ta Ngày nào anh cũng hỏi nhà em đâu Ngập ngùng muốn nói vài câu Nhưng rồi mắc cở cúi đầu lặng im Nghiêng nghiêng chiếc bóng bên thềm Xuân đi hạ đến cho mềm nhớ thương Mối tình càng vấn càng vương Gặp nhau một thuở mà thương suốt đời Đong đưa giấc mộng đầy vơi Hẹn hò trao gửi những lời thiết tha Bên song chếch ánh trăng tà Hương gây mùi nhớ giọng ca gợi buồn Em đi như nước rời nguồn Như thuyền rời bến nỗi buồn ai mang Thu về gió đổi mùa sang Vàng rơi lả tả miên mang cõi lòng Đông tàn héo hắt chờ mong Người đi có nhớ ta không hỡi người Triều Phong Đặng Đức Bích BÀI THƠ KHÔNG TÊN Viết tặng một người vừa mới quen Bài thơ làm vội chửa cho tên Nói về hương sắc loài hoa qúi Sắc thắm hương nồng rộn tiếng khen Một đóa hoa tươi đóa hoa hồng Khoe màu từ lúc mới hừng đông Trăm hoa rực rỡ phô sắc thắm Nổi bật vươn lên một đóa hồng Đây đó rộn ràng tiếng ngợi ca Một nàng Xuân đẹp dáng thướt tha Nàng Xuân mang đến mùa xuân mới Đẹp mãi hoa hồng tuổi gấm hoa Ánh mắt long lanh nở nụ cười Má hồng môi đỏ nụ cười tươi Một vùng ánh sáng tinh cầu vỡ Ngây ngất hương nồng sắc thắm tươi Triều Phong Đặng Đức Bích


Mục Lục


5. Ăn Theo Về Saigon nhớ thầy già. Hiền triết Bùi lãng du- Bùi lãng tử- Bùi lãng xẹt Sắt chữ V cầu Nại Hà kêu kèn kẹt Thầy lỡ đi về- chẳng rũ tôi theo Ngàn năm nữa thơ thấy hoá thạch Là lúc thầy đang giữ một góc đời Chắc ngồi vỗ đùi cười ha hả Cởi mây vàng về động thăm chơi.. Về Saigon nhớ thiên tài nhạc Trịnh Tấu khúc của anh tôi ôm ấp trong lòng ?Đường về Hiệp chủng quốc mạnh bạo nhưng hời hợt Đường về phương Tây đõm dáng nhưng dễ sạt nghiệp Đường về phương Đông cực khổ mà thâm tình? Năm mươi năm tôi rọi soi tìm kiếm Thâm thì nhiều mà tình chẳng bao nhiêu Nếu được cảm ơn ? Xin cảm ơn thượng đế Đã sinh tôi chung thế hệ thiên tài Một lần nữa- xin cảm ơn tất cả Coi như lần tôi đã gặp duyên may? THÁNG TƯ BUỒN? Con ra đời vào một mùa thật lạ Mùa ngoài đường nón cối dép râu Con ra đời vào mùa ba tơi tả Mộng nhỏ mộng to mộng cuối mộng đầu.. Hồ Chí Bửu


Mục Lục


6. Tháng Ba Còn Sớm, Tin Mất Nước tháng ba, còn hưng hức mùa xuân nhiều kẻ vô tư, còn tưng bừng đâu biết mưa về, từ vô thủy mưa về, ai cũng tắm tai ương tháng ba, là tháng trước tháng tư dự báo hình như, trời đất chừ mây kéo về, non sông u ám bộ đội về, đỏ đất tháng tư! tháng ba còn sớm, tin mất nước đợi đến tháng tư, lệ ướt nhòa chim rủ về, ẩn cư núi thẳm tù về, gởi xác cùng non xa tháng tư chiến sĩ, tin thắng trận An lộc, A sao khắp bốn vùng Chiến thắng chưa mừng, tin mất nước đồng minh phản bội, đau nào hơn! tháng ba là tháng, theo dương lịch đâu phải, Trời ơi ! tháng lót đường hằng năm mỗi lần, tháng ba đến cơ hồ báo trước, nỗi đau thương. San Jose Nguyễn Đông Giang


Mục Lục


7. Đôi Mắt Buồn. Thuở mới gặp nhau đôi mắt thật buồn, Em cúi xuống vân vê tà áo, Ta thấy lòng nổi cơn giông bão, Đôi mắt nào đã dìm cả đời trai. Bốn mươi năm sau. Gặp lại nhau. Mắt em vẫn buồn vời vợi. Nhắc chuyện xưa bao nhiêu chìm nổi, Chúng mình cùng lưu lạc tha phương, Đôi mắt buồn vẫn chan chứa tình thương, Chỉ nhìn thôi, đâu cần ngôn ngữ. Cuộc tình ngày đó xa xôi, Đôi mắt buồn đi vào giấc ngủ, Hàng đêm,hàng đêm.. Bốn mươi năm qua rồi. Đất lạ trời quen, Vẫn không quên được tháng tư binh biến, Ôi! Những người yêu thời chinh chiến , Nhiều nỗi buồn không tên, Tháng năm dài thương nhớ vẫn triền miên. Giờ gặp lại em. Rất quen trên đất lạ. Không gì thay đổi cả. Đôi mắt buồn! Buồn quá tháng Tư!

Hoàng Yến
Mục Lục


8. ...Ta Trở Về Ta trở về ... nhìn em ngày tháng cũ Mộng rêu xanh nay đã phủ nửa hồn Ta gục đầu tay bới nấm mồ chôn Thương hạnh phúc những ngày xưa... nay đã ... Chẳng còn chi ngoài vần Mây hối hả Nhuộm xuân thì tô xám cả hồn hoang Rảo bước quanh ta khóc bởi điêu tàn Hồn chao đảo ... nhớ em ... ôi nhớ lạ Ta trở về ... Tim dường như mất cả Hồn thơ em nay vật vã phương nào ? Chỉ cho người ... nên ta bóng hư hao Thân lữ khách biết làm sao em hỡi ? Tình ngày xưa ... câu luyến thương trao gởi Đã phai mờ theo câu :"bởi vì xa ..." Cứ ngỡ tình xanh mãi chẳng tuổi già Nay mới biết ... thì ra như hạt bụi Còn gì đâu ... ngoài lệ rơi hờn tủi Ta nhìn em, nhìn lần cuối đêm này Để tình buồn như hạt bụi tung bay Theo gió lộng ... về trùng dương xa thẳm Jacaranda
Mục Lục


9. Về Huế Em về Huế một ngày mưa ngày em còn là một cô thiếu nữ. ngày em chưa nhìn thấy anh bằng xương, thịt như bây giờ, nếu rồi, em có về lại Huế liệu em còn được gặp anh bằng xương, bằng thịt như một ngày mưa. em vẫn chỉ là một cô thiếu nữ, và, em có anh như bức tranh tình vừa được vẽ trong những ngày mưa ở Huế. QUỲNH ĐỎ 4-3-2014 THÔI THÌ thôi thì, còn nói gì nữa... nhìn nó đau tôi cũng có sung sướng gì, biết! rồi có một ngày nó sẽ lại rì rào...! Biển, vẫn thì thầm mỗi đêm với tôi về sự cô đơn sự giận dỗi, cũng có khi nó gào lên trước sự giật mình của tôi vì sự thờ ơ, vô cảm, tôi dành cho thì có sao, tôi muốn nói với nó rằng - Nghe mãi chuyện cô đơn, buồn bã của ngươi ta mệt rồi... chưa kịp mấp máy môi đã thấy mặt nó bỗng trắng xóa và tan ra đến tội... thôi thì, còn nói gì nữa... nhìn nó đau tôi cũng có sung sướng gì, biết! rồi có một ngày nó sẽ lại rì rào...! Quỳnh Đỏ 27-9-2013 ĐÃ QUA MỘT MÙA YÊU Tình yêu chạm vào vách đá làm bờ đá thêm lởm chởm nhọn hoắt đâm vào mùa Xuân túa nhựa buồn Tình chạm nơi bờ môi nhạt nhòa khắc khoải, đam mê vụt cháy mùa yêu qua vội Tình như vạt mưa rơi vào trống vắng vuốt giọt buồn Tình lướt qua bản nhạc nào chênh vênh con dốc trượt xuống vực sâu Tôi khắc tên anh trên đá mưa sói mòn, màu hoang vu dấu vết sầu? QUỲNH ĐỎ 1-4-2014 Quỳnh Đỏ

Mục Lục


10. Thi Khúc Say Tình Rượu này ! - chưa uống đã say Rượu này! - chưa uống đã quay vòng vòng. Nào say vì chén rượu nồng Mà say vì bởi tôi cuồng dại si . Chiều nhìn ? theo bước vu quy Tôi ngơ ngẩn tiếc - đường đi em về ... Ngày xưa em tôi cùng quê Con đường cái nhỏ không về cùng em ?! Nguyệt rằm - nhìn ánh trăng đêm Ðọc câu thơ phú cùng em hẹn hò Rồi ta chung một chuyến đò Ðêm nhen nhúm lửa sưởi lò yêu thương !? Này này ! - rượu mới môi sương Sao tôi quên mất lối đường xưa qua ! Ðêm nay nhìn ánh trăng tà Sao tôi thơ thẩn như là tình si. Phải rồi ! - từ lúc em đi ! Là tôi lỡ dở vần thi nửa vời . Bây giờ tôi chỉ mình tôi Nhìn vầng trăng cũ - một trời nhớ thương.!
Phan Tưởng Niệm





Mục Lục


11. Chuyện Các Vì Sao em đến bên tôi mang theo một vì sao ánh sáng đủ lấp lánh trong bóng đêm em mê các vì sao tôi thì không nhưng có một lần em tặng tôi một bức họa vẽ một cô gái thật xinh đẹp ngủ với một vì sao họ thật thác loạn cùng muôn loại ánh sáng không màu cô gái luôn nói dối về những cuộc tình diễm tuyệt cùng các vì sao dù những gì các cuộc tình ấy để lại em nói ? không hơn các bãi rác chính bóng đêm đã khiến các cô nàng thật sự phấn khích trên giường cùng một hay các vì sao một khi tôi gặp lại Blanca tôi vẫn thường tế nhị hỏi thăm đến các vì sao của nàng các vì sao từng dìu nàng đến những cơn phấn khích nàng luôn cho biết chúng đã biến mất nhưng tôi biết căn nhà trên đồi ở con đường Parker ngắn ngủn các cửa sổ luôn đóng im ỉm nhưng mỗi đêm một hay những vì sao luôn ghé lại và Blanca luôn trải qua từng cơn kích ngất đến tận sáng đêm nay Blanca khướt say bầu trời tối mịt tôi đưa nàng về gần đến nhà vụt thấy một vì sao khá sáng từ trên cửa sổ tuôn chạy ? Chu Thụy Nguyên CHUYỆN TÌNH SÁU TÁM câu lục cục choàng ôm vai câu bát nháo bổ nhào cả bọn cổ lai hy câu lục cục rướn ễnh nẩy mình cặp kè câu bát nháo nhào rần tê kích dục vọng cương dương con khỉ lon ton lên non hái trái cậu sáu xạo nhốn nháo cặp kè chị tám tám chuyện tề thiên tám trật lất ăn thiết bảng èo ẹo cái lưng èo ẹo cái bản mặt dở hơi xóm bên kia con sáu xao xuyến kết anh tám tạm bợ cuộc tình nương cậy vợ tạm chồng hờ vui đâu chúc đó buồn đâu tạo nghiệp đó con đàn cháu đống con hoang con rơi con rớt con vỡ kế hoạch con ngoài giá thú con trong luật hạn chế sinh đẻ thằng út con chót thằng thêm con nữa nói hươu nói vượn gì thì người ta cũng bắt gặp con sáu xạo cặp kè anh tám tàng lêu têu sáu câu mùi mẩn ?

Chu Thụy Nguyên
Mục Lục


12. Bên Anh Bên anh những ngày vui, Trong tiệc tùng chào đón, Trong ánh mắt nụ cười, Anh là người thành đạt. Anh cho em phù phiếm, Những danh vọng cuộc đời, Cho em niềm hãnh diện, Được cùng anh sánh vai. Họ khen anh, chúc mừng, Toàn những lời gấm hoa, Cuộc sống là chiến trường, Bạn và thù không xa. Bên anh những ngày buồn, Khi đường đời thất bại, Khăn áo sẽ vô tình, Quên ngày vui xếp lại. Dù anh có trắng tay, Không lợi danh, tiền bạc, Tất cả đã như mây, Về cuối trời tan tác. Bạn bè không còn thân, Chén rượu mời đã nhạt, Bàn tay thôi ân cần, Khi xã giao gặp mặt. Dù nhân gian khép cửa, Làm mặt lạ với anh, Nhưng lòng em vẫn mở, Như bầu trời vẫn xanh. Anh sẽ không còn ai, Đường anh đi giông tố, Vẫn còn em sánh vai, Chung đoạn đường đau khổ. Em xin anh chớ buồn, Giữa tình đời đen bạc, Vẫn còn tình của em, Đủ cho đời phiêu lãng... Nguyễn Thị Thanh Dương. Hoa Xương Rồng ( Cảm tác từ hình ảnh Hoa Xương Rồng) Khi mà giữa thời tiết luôn nắng khô, Mặt trời như đốt nóng từng hạt cát, Cây Xương rồng vẫn chia cành, vẫn mọc, Màu xanh tươi dù nghiệt ngã quanh mình. Khi mà giữa thời tiết luôn đảo điên, Gío thành bão thổi về vùng hoang vắng, Cát xô nhau chạy dài trên sa mạc, Chỗ thấp chỗ cao cát vẫn mênh mông. Khi mà không giọt nước, đất khô cằn, Cây xương rồng vẫn nở hoa xinh đẹp, Từng màu sắc, từng nụ hoa cánh mỏng, Hoa mượt mà, lộng lẫy giữa thân gai. Không như hoa Sen cần chỗ bùn lầy, Cần ao nước để cho cây mọc rễ, Rồi kiêu kỳ như từ trong gian khổ, Hoa vươn lên khoe vẻ đẹp trinh nguyên. Khi mà vùng sa mạc bị lãng quên, Không ai đến, bước chân người xa lạ, Hoa Xương rồng mỗi chu kỳ vẫn nở, Vẫn đong đưa nhan sắc của đời mình. Như cô gái đẹp không gặp tình quân, Như hương phấn biết về đâu nhắn gởi? Như màu áo kiêu sa mà phận tủi, Hoa xương rồng giữa sa mạc lẻ loi. Thì có nghĩa gì tình em. Người ơi, Cây xương rồng giữa lòng anh sa mạc, Em kiên nhẫn dù quanh mình bội bạc, Em vẫn chờ mùa chín của tình yêu. Và hoa em sẽ nở giữa buồn hiu, Tình vẫn xanh giữa tình đời khô héo, Hoa vẫn tươi. Và anh không thể hiểu, Phút uá tàn, phút cuối vẫn yêu anh. Nguyễn Thị Thanh Dương. CON GÁI NAM. ( Viết theo yêu cầu của Mai Nguyễn và Phù Viên). Em đây nè, con gái Nam chất phác, Dù xa quê hay còn ở miệt vườn, Dù tiểu thư hay chân lấm đất, phèn, Vẫn có chung nét dịu dàng đôn hậu. Như bánh ít nhân dừa hay nhân đậu, Khó mà lầm dù hai thứ đều ngon, Cởi mở lòng, ngay thẳng giữa đa đoan, Không đẩy đưa tình yêu nhiều lối rẽ. Em vẫn tìm giữa dòng đời thác lũ, Chút hiền hòa của sông nước miền Nam, Em theo đò dọc, em về đò ngang, Bao nhiêu chuyến bấy nhiêu tình mong ước. Con gái nào cũng một thời hoa bướm, Đâu phải riêng em, con gái miền Nam, Dễ giận hờn và cũng dễ làm quen, Người ta nói em dễ thương, dễ tánh. Ruộng vườn miền Nam cò bay thẳng cánh, Nên tình người cũng rộng rãi bao dung, Dù mái tranh nghèo, con rạch, bờ mương, Hốn đất, hồn quê theo người đây đó.. Con gái Nam, ở nơi nào cũng thế, Không cầu kỳ, không khách sáo lắm đâu, Có sao nói vậy dù mất lòng nhau, Khi hiểu ra càng thương nhau hơn nữa. Bữa nào rảnh anh về quê em nhé ? Nghe tiếng hát hò buông thả trên sông, Nhìn cánh chim bay mỏi mắt chờ trông, Tình quê, tình em những điều đơn giản. Em đây nè, con gái Nam hiền lắm, Trước sau gì tính nết vẫn thế thôi, Khi trái tim đã trao gởi anh rồi, Anh hãy giữ một tình yêu có thật.

Nguyễn Thị Thanh Dương
Mục Lục


13. Lặng Thầm Đêm thức chờ trăng, ngắm gió lay. Nụ hoa thơm phức đợi, u hoài. Cánh chen gương trắng, đài ươm tím. Ai đó? Chẳng cùng Ta ngất say! Sương thấm từng canh, lá xót xa. Thềm hoang rêu lạnh nhạt hương ngà. Tim không chăn đắp, hồn buông thả. Lạc lõng vào mơ, không ngõ ra! Về đâu, đem nhớ tự giăng mắc? Triền vắng sườn non đón ngóng thầm. Ước bóng ngày xưa còn trở bước. Được lần tương ngộ, khách tri âm! Đêm sắp tàn canh vọng xa xăm. Mù khơi tít tắp gởi tích trầm. Khói sương trong mắt vờn lãng đãng. Lưu luyến nào phai với tháng năm! nguyênHOANG DỐC XOÁY. Bước chân thầm đi ngang. Ngõ xưa cỏ úa vàng. Gió thức dậy rời mộng, Dư âm buồn miên man. Cơn mưa chiều mong manh. Vài giọt đọng lại cành. Uể oải buông mệt mỏi, Vương bụi trần long lanh. Mưa đẫm dầm tháng bảy. Xuyên suốt khắp cả rừng. Về lại bờ suối lạnh, Nghe tiếng núi thở than. À, vẫn còn buổi sáng! Con nắng nhạt xuôi chiều. Dừng ngắm vùng nguyên thảo, Đêm chìm đắm hoang liêu. Bước chân về liêu xiêu. Nhìn lại màu xanh ngát. Mùa thu nào vừa đến? Đã vội rám lá vàng. Níu gìn một cung điệu. Chầm chậm rơi qua tim! nguyênHOANG
Mục Lục


14. Những Gì Cùng Anh Những gì nói được cùng anh Thì em đã nói làm lành đấy thôi Hôm qua mây, gió trôi trôi Làm trăng chợt tỏ bỗng rồi như tan. Yêu thương như giữa hai hàng Hiểu và không hiểu chẳng màng đến ai Nghĩa là chẳng đậm chẳng phai Anh, em với tháng ngày dài có nhau. Cái gì không nhắc mà đau Nói như chẳng nói về sau có còn Ví dầu lòng dạ sắt son Mọi điều tan biến chẳng mòn tình yêu. Ngày mai xác thác hồn siêu Cũng cùng một dạ ngày liều bên anh Ðêm nay trăng, gió thanh thanh Ðời như sao bỗng an lành hơn xưa. Nghe đâu tí tách hạt mưa Lòng nghe trầm bỗng cho vừa nhớ thương Nghe vui mình vẫn chung đường Vẫn yêu vẫn ghét đời thường cùng đi. Vành Khuyên

Mục Lục


15. Bao Giờ Mắt buồn bé hỏi mẹ, Sao lâu cha chưa về. Bao ngày sao cứ trễ, Mẹ trả lời con đi ! Ôm con mẹ nói khẻ, ?Cha bận đi xa rồi. Tận miền lạ xa xôi, Chưa hề mẹ đến đấy?. Sao môi mẹ run khẻ, Nuốt nước mắt gượng vui. Tần tảo nuôi con dại, Gánh nặng trĩu bờ vai. Nội thương dâu hiếu thảo, Quần quật tìm miếng cơm, Thuốc thang trầu cau đủ, Nuôi con rách mà thơm. Ngày ngày bé đến trường, Sao vẫn được ở nhà, Nghe cha cũng đi học, Lạ, phải tận tít xa. Các bạn khác cũng thế, Mong ngóng ngày cha về. Con trẻ đâu thấu hiểu, Sao không về với con. Bao tờ lịch sang trang, Chừng nào Xuân trở lại, Mọi sóng gió bình ổn, Tình người bớt nhạt phai. Bé tung tăng đến trường, Thầy cô vui đến lớp. Cha mẹ hết nơm nớp, Hòa bình lộ sắc vui. Tương lai thuộc giới trẻ, Cần chăm chút phát huy. Sức sống tốt trong tay, Đất nước mới tiến khỏe. Trần Thành Mỹ Mục Lục


16. Tháng Tư Muối Gừng Hai tay nâng dĩa muối gừng Gừng cay muối mặn xin đừng phụ nhau (ca dao) khi ta về. ốm nhom. cây sậy em liểu khô. gầy. gió thổi bay dòng đời đã vậy thành như vậy cũng may còn được gặp lại nhau còn nắm bàn tay em xương xẩu vậy là còn đây còn em đây dẫu ta. đói. ốm như cây sậy dẫu em. đói. liểu gầy gió bay vẫn còn bàn tay để nắm tay quá đỗi vui mừng khôn kể siết tình ơi mấy năm dài xa biệt muối còn vị mặn níu gừng cay ta về chiều trời mây trắng bay em đứng bên hiên nhà ngó sửng liểu gầỵem.mắt lệ rưng rưng ôm tạcây sậỵlỡ độ đường năm tháng nuôi đời nhau gắng gượng tình em hàn gắn buổi tang thương vẫn bên nhau bươn tiếp đoạn trường liểu gầỵem.cô Tấm thảo thơm sậy khộtạúa mùa hảo hớn tang bồng hồ thỉ lạc đường tên nay về nương áo vá bên em ta thiệt nhói đau thời kiêu bạt cắn răng nhai ngướu từng hạt sạn miếng cơm lỡ vận độn sắn.khoai cúi đầu cố nuốt qua cơn đói bởi có em.đờịcó tình em dựa nhau ngày tháng cũng dần quen bởịtại. tình yêu .em. cô Tấm sậy khộtạtháng Tư. đau đậm về Xóm nghèo chia đóịkhát.em viết lời Thơ nàỵtạem.nhớ nghẹn thuở hai mình.cơm.nhaịhạt sạn một thuở gừng cay thương muối mặn tới giờ vẫn mặn muối gừng cay?. TRẦN HUY SAO CÁI LON GÔ nguyên thủy là lon sữa bột hiệu Guigoz ở tận xứ Hòa Lan mịt mù sông biển qua xứ Việt Nam bớt chữ xài cho tiện Tây u gì thêm líu lưỡi, cứ lon gô khi còn sữa là sữa bột Guizgo xài hết trơn rồi gọi trỏng là lon gô đựng muối đựng bột đựng đường đựng mỡ đựng ôi thôi là đủ thứ hầm-bà-lằng tới nổi lon gô đeo dính hành trang khi loa gọi lên Phường mười ngày ?học tập? nói học mười ngày sao lâu dữ vậy ai biết đâu nà cứ hỏi cái lon gô ! gô ruốc sả gô đường đen gô bắp lớ theo suốt chặng đường rào kẽm bủa giăng thời chinh chiến ta có bình bidon làm bạn buổi sa-cơ-mười-ngày ta có cái lon gô nước mắt nhớ thương em dành vô đó mổi đợt ?thăm nuôi? qua suối vượt đồi lon gô có đợt thăm đầy có đợt thăm vơi nhưng tình em không gian-dối-mười-ngày ta nhờ cái lon gô để hãm trà cơm cháy đựng nước tắm trôi những dề ghẻ lở nấu nhừ sắn khoai những ngày đau ốm cố nuốt cho qua lấy sức tiếp tháng ngày? tình yêu em tình lon gô là vậy cách gì quên suốt bao năm đày ải giờ em vẫn còn bên ta dặm đường xa ngái còn cái lon gô xưa cứu độ đâu rồi ! ơi cái lon gô thân thiết quá một thời nay tháng Tư về ta thiệt lòng tưởng nhớ !.... Trần Huy Sao
Mục Lục


17. Hương Trầm Hương trầm thắp mộ anh Em nhớ về kỷ niệm Dòng thời gian chưa xóa mờ chinh chiến Em vẫn bên anh, sưởi ấm linh hồn Tất cả đổi thay Cây nhỏ năm xưa anh trồng Nay là đại thọ Đứa trẻ chưa biết cha Nay là chiến sĩ Bấm đốt tay, ngày tháng qua mau Nhuộm thời gian, điểm bạc mái đầu Tất cả đổi thay Còn đâu nữa, lối nhỏ năm xưa chúng mình hò hẹn Còn đâu nữa, bụi gai nhỏ làm em đau nhói Cột điện cao cao, so hàng thẳng lối Phố thị về đêm rực rỡ hoa đèn Tất cả đổi thay Chỉ còn em và anh Một miền ký ức Theo gió Hương trầm Thoảng bay Sông Trà
Mục Lục


18. Ngày Lễ Mẹ Tháng 5 bao giờ cũng phảng phất một lời ru Của mẹ ầu ơ, theo con cùng năm tháng Từ lúc sinh con ra, dài đến khi quá vãng Vẫn ôm ấp đời con, che chở lúc thăng trầm Cho con mãi ngậm ngùi, khi bắt gặp tháng 5 biết gọi cho ai, để dài dòng kể lể Mother's Day, con ghen tị cùng nhân thế Mẹ có còn đâu, để con gọi chúc mừng. Vân Hà
Mục Lục


19. Hồn Thiêng Sông Núi Nghe cung kiếm từ ngàn xưa vọng lại Tiếng reo hò của hàng vạn anh linh Đã đứng vùng lên cứu lấy dân mình Thoát khỏi ách bạo tàn từ phương Bắc. Ngàn năm trước ông cha ta chống giặc Bảo vệ sơn hà, cho đến ngày nay Lưu sử xanh muôn đời và mãi mãi Một nước Việt hùng, không nô lệ ai. Dù đã có hàng ngàn năm khổ ải Trăm năm dài mang ách bọn thực dân Đã vùng lên không cúi đầu khuất phục Chống xâm lăng, chiến thắng đã bao lần. Quá khiếp sợ trước hùng binh đất Việt Tướng Thoát Hoan, tên tướng quá ươn hèn Nơi chiến trường không tả xung hữu đột Chui ống đồng, để lẩn trốn bao phen. Đồng bào ta, từ xưa được luyện rèn Không khiếp nhược trước kẻ thù hung hản Nhưng thân ái kết giao ai là bạn Cùng một lòng chống lại bọn ngoại xâm. Vàm Nhật Tảo, ngọn lửa hồng rực cháy Người anh hùng đã diệt được tàu Tây Nguyễn Trung Trực, danh ngài lưu muôn thuở Bằng trí khôn, tạo được chiến công này. Xin khấn nguyện bao hồn thiêng sông núi Bao anh hùng và muôn vạn anh linh Cùng ơn trên phù hộ quê hương mình Kể từ nay không còn chinh chiến nữa ! Song An Châu ­­
Mục Lục


20. Hư Vô Tiển người vào cõi hư vô Tôi gom lá chết hong khô chuyện tình Thôi quên đi chuyện chúng mình Trăm năm xin để hoa Quỳnh ngủ yên? Bướm ơi! Trời vào thu se lạnh Lá vào thu pha vàng Em ngôi bên song cửa Chú bướm vàng bay sang Bướm vờn song cửa nhỏ Thả hồn bướm mơ hoa Trời vào thu đẹp quá Bướm ơi! đừng bay xả Mưa Chiều Tịnh Hồ em, anh đến thăm Mưa chiều còn đọng ướt mầm chồi non Kìa đôi vịt trắng vẫn còn Và con đường nhỏ lối mòn đi qua Có chum hoa dại xa xa Anh đưa tay hái làm quà tặng em Bên nhau giây phút êm đềm Thật nhiều mộng ước bên thềm xuân thu Tình anh ngọt ấm lời ru Ðưa em vào cõi mộng du bềnh bồng Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Ðông Thiết tha tiếng gọi ấm nồng con tim Một đời trăng trở đi tìm Làm sao trút cạn nỗi niềm nhân sinh Tịnh Hồ hai đứa ngồi nhìn Mộng hồn thơ với ân tình nước non Nguyệt Vân
Mục Lục


21. Xa Lâu Ta Nhớ ... Xa lâu ta nhớ quê nhà Thành phố ta đó tên là Quy Nhơn Đẹp sao phía bắc Bồng Sơn... Tây Nam ta có Trường Sơn sững sừng Tỉnh ta có biển có rừng Có tôm có cá có bưng có biền Tỉnh ta ta có mẹ hiền Có trang sử đẹp thiêng liêng anh hùng Có tình dang dở, thủy chung, Huyền Trân công chúa Khắc Chung một thời??/ *********** Quê tôi Quê tôi có những đồi sim, Có hoa mua trắng có triền tràm xanh Có đồng ruộng nhỏ bao quanh, Những căn nhà mái lợp tranh thuở nào Thuở tôi còn nhỏ ước ao, Chiều về cùng mẹ ra vào tận nương Thương sao tiếng cuốc bên đường, Lắng tai mấy nhịp canh trường xót xa Thương sao những buổi chiều tà, Quê tôi nghèo khổ hiền hòa bức tranh. Tình yêu muôn thuở dỗ dành Nuôi tôi khôn lớn trưởng thành từ đâu? ******** Tôi yêu Tôi yêu một ánh trăng thanh, Một cơn gió mát trong lành miền quê Yêu con sông nhỏ - yêu bờ đê, Yêu con núi thấp chim về trú đêm Tôi yêu tiếng hát êm đềm, Các cô gái trẻ trên triền dâu xinh Tôi yêu những sáng bình minh, Từng đàn con trẻ xinh xinh đến trường. Quê hương trăm nhớ ngàn thương Quê hương tất cả thiên đường để yêu? ************** Em muốn dắt anh về Em muốn dắt anh về với quê hương em đó: Nơi từ nhỏ em được lớn lên, -Quê hương em đó có đồng luá hai bên -Sóng rì rào trên đại lộ Nam Bắc Em xin đưa anh về với dòng thơ xa lắc, Hòn Vọng phu, một câu chuyện đau lòng Em đưa anh về với bến nước, con sông, Quê hương em đó, có chiều dài lịch sử Em xin đưa anh về biển Qui Nhơn - tình tự: Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm - nơi ấy thưở nào Em đưa anh về ôn lại? ngồi cạnh bờ ao, Mẹ chưa đánh roi nào tôi đã khóc,* Có cô bé nhà bên nhìn tôi? cười khúc khích, Chao ôi! -Một lời thơ quá đỗi ngọt ngào trên môi Anh sẽ lắng nghe với cảm xúc bồi hồi? Một tỉnh nhỏ nhưng tim chào rất lớn! *************** Mẹ chưa đánh roi nào tôi đã khóc,* Có cô bé nhà bên nhìn tôi? cười khúc khích (Thơ Giang Nam) TT Hiếu Thảo
Mục Lục


22. Quê Hương Còn Đó Nỗi Buồn ! Mùa xuân này bỗng gặp lại anh ở một nơi xa quê hương vạn dặm vâng, tôi đã gặp lại anh người chiến binh năm xưa một lần buông súng trải qua những mùa xuân trong ngục tù trong những trại tù lao động khổ sai, đọa đày nghiệt ngã một cuộc trả thù man dã người trả thù người cùng da vàng máu đỏ cùng một quốc tổ Vua Hùng Tôi đã gặp lại anh xa cách nghìn trùng mảnh đất quê hương giờ đang quằn quại Tôi đã gặp lại anh sau muôn ngàn khổ lụy những tháng ngày vật vờ vùng biên giới nước độc ma thiêng thân trong xích xiềng, những người trai một thời ngăn giặc giữ yên bờ cõi quê hương chống lại bọn bất lương khom lưng làm thái thú cho kẻ thù Bắc phương Gặp lại nhau khi trán đã hằn sâu những vết nhăn ngang dọc những vết nhăn của chiến trường hiểm hóc những vết nhăn của thời gian trăn trở một đời người nắm chặt tay nhau rưng rưng nước mắt? cười! hàm răng cái còn cái mất mà nỗi lòng còn quay quắt về một lời thề Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm Gặp lại nhau với muôn vàn kỷ niệm đớn đau! Như tiếng thét của Việt Khang rung động những mảnh hồn? ?Quê hương tôi đâu Việt Nam tôi đâu!?? Việt Nam quê hương trên bốn ngàn năm lịch sử giờ nằm trong tay bầy quỷ dữ quên cả tổ tông dâng hiến biển đông cho kẻ thù phương bắc ôi! Quê hương Việt Nam đang quằn quại trong tay giặc Chúng ta phải làm gì để cứu lấy quê hương? nỗi đau canh cánh những đêm trường đó là câu hỏi dành cho mỗi người những người con của mẹ Việt Nam đang nằm trong vòng tay mẹ hay sống tha phương Hãy đứng lên theo tiếng quân lệnh Nguyễn Huệ Bắc Bình Vương về Thăng Long thành mở tiệc khao quân giữa mùa xuân dân tộc Đứng giậy đi thôi, Còn chờ gì nữa? DuYên NGHE CA KHÚC TIẾNG XƯA Thân tặng nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh Sóng nước Hương giang mờ hư ảnh Một thuở vương triều đứng ngẩn ngơ Tiếng xưa nằng nặng còn vương vấn Nghệ sĩ buông tơ luống thẫn thờ Hoàng hôn lấp lánh sóng Hương Giang Thành quách rêu phong đứng ngỡ ngàng Dư âm khúc nhạc vương triều cũ Thuyền rồng đã vắng khúc xênh xang ?Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp? Ngàn năm soi bóng đất thần kinh Gốc phượng rũ buồn chờ áo tím Nơi hẹn hò xưa vẹn cuộc tình Tiếng hò vọng lại trong đêm vắng Ai oán trũng buồn kiếp biển dâu Róc rách mạn thuyền trên sóng nước Tiếng xưa quyến luyến chuyện công hầu Xa Huế từ ngày gẫy súng gươm Vầng trăng lưu xứ đợi vô thường Thương quá nước non giờ vạn dậm Gửi người tri kỷ chút tơ vương DuYên
Mục Lục


23. Thuở Ban Đầu Cái thuở em còn cắn móng tay Hồn thơm như thể bông hoa nhài Chiều về thấp thoáng bên trường nữ Cây phượng bên đường gió nhẹ lay Cái thuở em còn để tóc mai Đường thơm áo lụa gót thon dài Thả bay từng sợi tung theo gió Như áng mây chiều rơi xuống vai Cái thuở tan trường bước khoan thai Tóc xanh phủ bóng nét trang đài Sương chiều ướt cỏ bên hiên rụng Thấp thoáng ngoài vườn một bóng ai Cái thuở chúng mình biết hẹn nhau Bên chùm bông giấy cuối vườn sau Mẹ cười khẻ hỏi ai đến đó ? Em đứng nghiêng nhìn má đỏ au ! Anh đứng như mơ đợi dáng em Áo dài tha thướt bước qua thềm Bóng em như dáng con chim én Về đậu trong vườn xuân ấm êm Cái thuở em vừa biết cong môi Thầm trao nhau một chiếc hôn dài Buổi chiều nhẹ tựa như hơi thở Em ngước lên nhìn nắng đã phai Thuở ấy đã xa nửa bán cầu Thời gian thấm thoát vẫn trôi mau Nhìn lên tóc mẹ pha màu tuyết Ngó lại vai em cũng rối nhàu Chừ biết tìm đâu tuổi ngọc ngà Từ khi khói lửa cháy quê cha Em theo chân mẹ đi lánh nạn Tà áo em xưa lệ đã nhòa... ! Giả Từ Áo Trắng Ngày xưa trong trắng tình thơ Em thơm áo lụa giữa trưa nắng vàng Hồn như hoa bưởi hương lan Qua cầu sóng tóc chảy tràn xuống vai Em về dáng nhỏ trang đài Nắng thêu mái tóc hoa cài gót tiên Sông xanh in bóng Tràng Tiền Chảy xuôi một mái vai hiền uốn cong Hè về hoa phượng đỏ lòng Em đâu biết kẻ lên đường chiến chinh Nỗi buồn trải xuống lời kinh Nguyện cầu ngày tháng an bình anh đi Mai nầy ai hỏi chia ly Xin người nhớ biệt kinh kỳ sớm mai Đời em tóc xỏa trâm cài Cứ vui nhung lụa đừng hoài tha nhân Đời anh còn được ân cần Với hoa bướm mộng với vần thơ say Hay băng giá vẫn lạnh đầy Tâm hồn liệm kín của ngày chinh nhân Vẫn vui và vẫn ân cần Với lòng yêu mến qua vần điệu xanh Dẫu nay lá đã lìa cành Vẫn xin giữ lại chút tình hoài hương ! Trần Đan Hà
Mục Lục


24. Đêm Lữ Thứ Tình PHI LONG: Nửa đen nửa trắng Em tô mãi chữ PHI LONG độc nhất Lạnh phương trời đất khách ngóng quê xa Hoa phai màu mái tóc cũng phôi pha Khuya lạnh lẽo sân ga trời tuyết phủ Đâu thấy nữa vấn vương thuở cũ Lại buồn thêm tình nhớ hôm nay Chiều tà nhuộm tím áng mây bay Hàng liễu rủ tiếng thở dài viễn xứ Ươm cõi mộng đâm chồi đêm lữ thứ Thành quách cao nhốt nỗi nhớ Xuân Kiềư Mái tiêu chong ngọn đèn khêu Nửa đen nửa trắng chín chiều quê hương Nỗi buồn Đồng Tước* càng thương! * Xuân Kiềư & Đồng Tước*= Do từ câu thơ: ?Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều? ; Theo Tam Quốc Chí thì Táo Tháo đã xây Đồng Tước đài, có hai cây cầu bắc ngang qua, để ông uống rượu, làm thơ vịnh, ca hát vui chơi với bá quan văn, võ. Nhưng khi Khổng Minh đến Đông Ngô thuyết khách, ông ứng khẩu bịa ra một bài thơ khác, trong đó có câu: ?Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều?; Ý Khổng Minh muốn nói là: ?Tào Tháo xây đài Đồng Tước để nhốt hai nàng Kiều đệ nhất giai nhân?. Đại khái câu thơ ấy là Khổng Minh muốn khích tướng Châu Du phải liên kết với Lưu Bị, mà chống Tào Tháo. * Tình Hoài Hương
Mục Lục


II . Văn___________________________________________________________

1. Mẹ Vắng Nhà Một Tuần


Nguyễn Thị Thanh Dương


Chủ Nhật cả nhà ăn cơm trưa sớm, để chị Bông lo sửa soạn hành lý cho chuyến bay buổi chiều đi Florida. Chị sẽ đi training, công việc sẽ bắt đầu vào ngày thứ hai và kết thúc vào thứ sáu, coi như chị sẽ xa chồng con gần một tuần lễ, mà lòng chị buồn buồn. Từ ngày đi làm, đây là lần đầu tiên chị đi training xa nhà và lâu nhất.

Chọn mấy bộ quần áo và vài đồ dùng cá nhân như khăn mặt, bàn chải răng ..chị xếp gọn gàng vào chiếc va ly nhỏ xách tay cùng với cái laptop là xong.

Ba đứa con đang bu quanh chị. Betsy vòi vĩnh:

- Con muốn đi với mẹ, Florida có Disney World thích lắm.

Vẫn là Betsy:

- Có biển nữa, con muốn tắm biển và nhặt vỏ sò trên cát.

Chị ngẩn ngơ, con Betsy ăn nói mộng mơ như một thi sĩ.

Cô Tabi chị cả 9 tuổi thì đòi hỏi thực tế hơn:

- Mẹ mua cho con cái vòng đeo cổ, vòng đeo tay bằng vỏ sò nhé ? con thích màu hồng.

Khi Tabi thích màu hồng, có nghĩa là Betsy không được chọn cùng màu vì sẽ "đụng hàng" Cô chị luôn hiếp đáp cô em như thế. Chắc là có "di truyền" vì ngày xưa còn bé chị Bông là chị cả, cũng chuyên môn hiếp đáp, giành ăn, giành chỗ ngủ với các em. Nên chị biết chẳng thể nào thay đổi tính nết Tabi cho được.

Betsy dịu hiền, là em mà luôn phải chiều lòng chị. Nó phải "né" màu Hồng, dù đó cũng là màu nó yêu thích:

- Mẹ mua cho con vòng đeo cổ, đeo tay bằng vỏ sò màu trắng nhé..

Chị đi Florida, hãng sắp đặt cho những nhân viên ở khách sạn Walt Disney World Swan and Dolphin ngay trong khu Disney World cho gần với phòng hội họp. Thật tiện lợi.

Thế là các con chị hào hứng sôi nổi lên, làm như mẹ chúng đang đi vacation để tắm biển Florida và rong chơi trong khu giải trí Disney World không bằng.

Chị Bông âu yếm giải thích:

- Các con cưng ơi, mẹ có đi chơi đâu, mẹ đi làm việc mà. Nếu như bây giờ các con nghỉ Hè thì cả mấy bố con cùng đi với mẹ, bố sẽ trông các con, khi nào xong việc mẹ về khách sạn, cả nhà ta cùng đi chơi..

Thằng út Holden cũng bắt chước hai bà chị nũng nịu:

- Con cũng muốn đi Florida với mẹ

Với mái tóc mới cắt cao, gương mặt bầu bĩnh sáng sủa của nó phụng phịu trông càng xinh. Mỗi khi cắt tóc xong, Holden đều soi gương và không hài lòng bày tỏ: " Con xấu qúa, con giống Indian, con giống chú hề". Làm vợ chồng chị phải bật cười vì sự so sánh dễ thương ấy.

Chị giải thích cho con:

- Holden ơi, nếu con đi Florida với mẹ, mẹ sẽ phải gởi con cho day care ở Florida mỗi khi mẹ đi học, đến chiều mới về khách sạn, chịu không?

Chắc thằng bé 4 tuổi nghĩ đến một nơi chốn day care xa lạ ở Florida, không có mấy đứa bạn quen, không có cô giáo quen, nên nó từ chối:

- Không, con sẽ ở nhà với bố và đi day care của con. Nhưng mẹ đi Florida nhớ mua puzzle cho con nhé?

.Món này Holden đã dặn dò từ chiều hôm qua, nó thích chơi trò xếp puzzle lắm. Holden làm như mẹ đi công tác ngay trong cửa hàng bách hoá, có hàng trăm thứ để cho nó muốn mua.

Cuối cùng thì các con đã hiểu ra không thể đi cùng với mẹ, hay giữ mẹ ở lại nhà, ngoài chuyện nhờ mẹ mua quà và chấp nhận ở nhà một tuần không có mẹ.

Đúng 3 giờ chiều anh Bông chở vợ con ra Salt Lake City Airport. Màn chia tay cũng rơi nước mắt giữa mẹ và con...

Chị Bông ôm hôn từng đứa con rồi tổng chào:

- Ba đứa ở nhà nghe lời bố này, tự ăn uống đầy đủ này. Đừng để đói bụng, không "ai" lo cho con đâu. Rồi thứ sáu ra đây đón mẹ về nhé.

Anh Bông tự ái:

- Em nói thế là "ám chi" ? anh bỏ bê con ?

- Thì anh có biết nấu cơm hay đút cơm cho con bao giờ? Mà đứa nào cũng thuộc loại lười ăn, kén ăn và khó tính.

Anh Bông bí mật phấn khởi:

- Anh có cách. Em đừng lo. Cờ tới tay ai người ấy phất?

- Chúc 4 bố con ở nhà vui vẻ, mạnh khỏe

Nói xong chị vội kéo valy đi vào trong, không dám nhìn những bàn tay bé bỏng đang vẫy vẫy tạm biệt mẹ yêu. Người mẹ có đàn con nhỏ chân bước một hướng mà lòng thì còn ở lại một nơi.

Về nhà, buổi chiều 4 cha con vẫn có cơm ăn, những thứ từ buổi trưa chị Bông làm sẵn, nên anh Bông thảnh thơi.

Buổi tối đầu tiên vắng mẹ, cô Tabi và Betsy không dám ngủ riêng phòng, cùng dọn chăn gối sang phòng ngủ với bố và Holden. Vui quá, 3 chị em đùa giỡn đến khuya mới thật sự nằm yên để ngủ.

Buổi sáng anh Bông sẽ dậy sớm để đưa 2 con gái đi học và thằng út Holden đến Day Care trước khi anh đi làm..

Buổi chiều, đón 3 con về nhà đầy đủ, bếp núc nguội lạnh, nhưng tình cha ấm nồng, anh Bông tuyên bố:

- Nào, chúng ta cùng đi ăn nhà hàng?

Lũ trẻ nhảy tưng lên reo vui:

- Thích qúa, vui quá..

- Nhưng hôm nay không phải cuối tuần mà bố? cô Tabi ra vẻ hiểu biết thắc mắc.

Anh Bông khẳng định:

- Những ngày vắng mẹ đều là cuối tuần. Ngày nào chúng ta cũng ăn nhà hàng và long rong ngoài đường.

- Ở với bố thích qúa.

- Bố thật là đáng yêu.

Bây giờ là đầu mùa Đông, mùa Đông Utah bao giờ cũng đến sớm và lạnh, thành phố Centerville đã mấy lần tuyết rơi, cũng không làm 4 cha con ngại ngùng.

Lũ con chạy ùa ra closet chọn áo ấm, chọn mũ len, hí hởn tự mặc lấy, xong ra chỗ xỏ giày.

Thế mà có mẹ, chị Bông phải vừa giúp các con mặc đồ vừa vất vả hò hét lắm mới xong phần ăn mặc này.

Hôm thì anh Bông cho chúng ăn nhà hàng Mỹ, hôm thì nhà hàng Việt Nam, về nhà chiều tối đứa nào còn đói bụng thì lấy những hot dog, bánh mì, chip, chesse, bánh ngọt, ice cream hay trái cây, nước uống có sẵn ở nhà mà ăn thêm, cho nên nhà lúc nào cũng bừa bộn đủ thứ ăn vặt cùng khăn giấy, ly dĩa giấy, thìa, nỉa ..trên bàn như vừa xong một bữa tiệc mà chưa có ai dọn dẹp.

Chiều nào lũ trẻ cũng sung sướng thay quần áo đẹp theo bố ra nhà hàng, vừa được ra ngoài trời, vừa được đi ăn, đứa nào cũng thích. Có mẹ ở nhà, mẹ sợ các con ra ngoài khi trời nhiều gío, nhiều tuyết, lại cảm cúm, lại ho hen hay sổ mũi mà thương, mà xót.

Mỗi buổi tối mẹ đều gọi điện thoại về nói chuyện với từng đứa, lo lắng hỏi con có ăn ngon không? Có no không?

Chúng giành nhau phone để khoe với mẹ:

- Con thích đi ăn kiểu của bố.

- Con thích sống kiểu của bố.

- Mỗi ngày đi ra nhà hàng vui lắm mẹ ơỉ

Bà nội chúng ở tiểu bang khác cũng mỗi buổi tối gọi tới hỏi han, làm như xa mẹ, cuộc sống của chúng sẽ đảo điên, sẽ mất thăng bằng. Khi hay tin mẹ chúng sẽ đi xa vì công việc, bà đề nghị sẽ bay sang Utah để "nuôi" đàn cháu mấy ngày "bơ vơ" ấy, nhưng bố chúng không muốn làm phiền bà, và muốn chứng tỏ cuộc sống luôn tươi đẹp dù trong "hoàn cảnh" nào.

Bà và mẹ, hai người phụ nữ qúa lo xa.

Ba chị em đã sống những ngày tự do thần tiên, không bị mẹ ép ăn no, ăn đúng món bổ dưỡng, hay hạn chế những món có chất đường, chất béo.

Chúng tha hồ mặc quần áo theo ý thích, dù quên không mặc cái áo dày vào mùa Đông, hay quên đeo găng tay bằng len khi ra ngoài, bố cũng không hề hay biết.

Giày dép đi về chúng quăng lộn xộn, giày đứa này lẫn với vớ đứa kia bố cũng chẳng quan tâm. Nhất là thằng Holden, nó ngồi bệt xuống để cởi giày, xong nó cầm giày, cầm vớ hất tung lên về phía sau, mà không cần biết giày vớ sẽ đi về đâu.

Ngày mai Holden lại hỏi:

- Bố ơi, giày vớ của con đâu?

Thế là bố con lại có màn đi tìm kiếm những giày dép, và vớ thất lạc của mình, càng thêm vui vẻ náo nhiệt.

Vui thì vui, nhưng mỗi khi tối đến đêm về đứa nào mà không nhớ mẹ, mong mẹ về với những món quà nhắn gởi.

Chiều thứ Năm, từ ý tưởng của cô Tabi, hai chị em Tabi và Betsy đã hí hoáy viết lên 3 tờ giấy trắng tinh hàng chữ "Welcome Home" to tướng, rồi tô màu xanh, đỏ, vàng thật lộng lẫy. Chúng sẽ đến phi trường, đứng đón mẹ trước cửa lối ra bằng cách xếp hàng ngay ngắn cạnh nhau, tay mỗi đứa giơ cao tờ giấy của mình để ghép lại thành hàng chữ "Welcome Home" cho mẹ bất ngờ và cảm động.

Chiều nay thứ sáu, 4 bố con đã có mặt ở Salt Lake City Airport để đón mẹ về vào lúc 2 giờ trưa. Cả 4 bố con đều hào hứng, anh Bông đã chán cảnh mỗi ngày chăm sóc con và dẫn con đi ăn nhà hàng rồi, có vợ về trao trả bổn phận lại cho vợ.

Đến nơi mới biết hãng máy bay thông báo chuyến bay sẽ đến trễ 2 tiếng nữa. Nghĩa là chị Bông còn đang bay lơ lửng trên không hay đang đợi chờ ở một phi trường nào đó.

Ba đứa trẻ ban đầu còn hào hứng chạy chơi lăng quăng với nhau, chừng nửa tiếng sau thì bắt đầu thấm mệt và chán nản, hết ngồi ghế lại đứng lên kêu khát nước, kêu đói bụng, bây giờ anh Bông mới biết sự lo xa của vợ luôn có lý. Đi đâu, dù lâu hay mau chị Bông cũng xách theo một giỏ những đồ ăn thức uống cho trẻ con, dù anh đã khó chịu nói chị chỉ bày vẽ ra cho thêm bận rộn. Chị thường nói:

- Trẻ con động một tí là đòi ăn đòi uống, phải mang sẵn cho con.

Chúng quên đang đợi đón mẹ về, Betsy nhăn nhó nói:

- Bố ơi, con đói bụng lắm, đi nhà hàng đỉ

- Bố ơi con muốn ăn Pizza. Holden cũng nhăn nhó theo.

Anh Bông phải dỗ dành:

- Chúng ta đợi mẹ về cùng đi nhà hàng luôn cho vui.

Anh Bông rủa thầm hãng máy bay, không hiểu sao lại trễ vào đúng chuyến bay có vợ anh để cả nhà cùng vạ lây như thế này. Anh biết, chị Bông ở "nơi kia" cũng đang sốt ruột lắm..

Giờ phút trôi đi thật chậm khi người ta đang mong ngóng. Lũ trẻ vừa đói vừa mệt, 3 tờ giấy ghi chữ "Welcome Home" lộng lẫy được nâng niu lúc nãy, bây giờ nằm hững hờ trên ghế, đến nỗi một tờ rơi xuống đất cũng chẳng đứa nào nhặt lên.

Khi chuyến bay đến thì 3 đứa đã mệt mỏi vì đói bụng, chúng quên 3 tờ giấy, quên xếp hàng để chào đón mẹ về như người ta chào đón một vị khách yêu qúy đến thăm như chúng đã sắp đặt.

Để valy sang một bên, chị Bông ôm chầm lấy các con. Câu nói đầu tiên của thằng Holden làm chị xót xa lòng:

- Mẹ ơi, con muốn ăn cơm với trứng

Thật đơn giản món trứng chị vẫn làm vội cho con khi không có nhiều thì giờ, để chảo cho chút dầu, phi hành hương cho thơm rồi đập trứng vào, cho chút nước mắm quậy lộn xộn lên vài giây là xong, thế mà bây giờ thằng bé ao ước.

Thằng bé thèm cơm, thèm trứng, chẳng thèm món ngon nào khác. Chắc là Holden đang đói bụng lắm, hay nó nhớ cơm nhớ món của mẹ?

Ra chỗ lấy xe, anh Bông đưa cả nhà đến nhà hàng, vì về nhà thì có gì mà ăn? Ai cũng đói bụng lắm..Gía người đi xa là anh Bông thì về nhà đã có sẵn nồi phở nóng hổi hay bữa cơm ngon chờ đợi rồi.

Chiều thứ sáu bữa ăn nhà hàng ngon và vui vẻ hẳn lên vì có thêm chị Bông về đoàn tụ với chồng con.

Vừa đặt chân vào nhà là nề nếp cũ hiện ra. Chị Bông ra lệnh cho các con:

- Này, tháo giày, vớ cẩn thận và xếp ngay ngắn lên kệ nhé.

- Con biết rồi, vớ để vào trong giày của mình?

- Con biết rồi, mỗi đứa một tầng, không để lộn xộn đâu mẹ ơỉ

Chị Bông tiếp tục nhắc nhở:

- Này, cởi áo lạnh và treo vào closet thẳng thớm nhé.

- Con biết rồi, và mũ thì treo vào móc?

- Con biết rồi, bao tay thì để vào túi áo lạnh của mình.

Chị Bông thay quần áo xong, gọi ngay các con vào phòng tắm:

- Ba đứa ơi vào đâỷ

Anh Bông ngạc nhiên thò đầu vào phòng tắm hỏi:

- Em muốn tắm cho 3 con ngay bây giờ hả?

- Cái cân ở trong phòng tắm mà, em chỉ muốn cân lại bọn nó xem sau gần 1 tuần em vắng nhà, anh nuôi nấng chúng như thề nào. Trông đứa nào cũng có vẻ ?xơ xác, tiêu điều qúa..

- Em làm như người ta cân?heo sau 1 tuần vỗ béo vậy. Bảo đảm toàn ăn đồ nhà hàng có chất lượng tốt, toàn món đắt tiền em ơi..

Tiếng chị Bông thốt lên đầy vẻ xót xa từ trong phòng tắm vọng ra:

- Giời ôi, thế mà đứa nào cũng mất 1 pao. !!?

Anh Bông ngạc nhiên bước vào phòng tắm:

- Tại sao lại thế nhỉ?

Chị Bông trách móc:

- Còn hỏi tại sao? Ăn nhà hàng chẳng bằng cơm nhà, với lại trẻ con vừa ăn vừa chơi, anh có để ý gì đến chuyện đói no của chúng đâu.

- Hèn gì anh thấy ngày nào chúng ăn xong cũng còn dư thừa đồ ăn , anh tưởng chúng chán ngán, no nê rồi chứ. Thật không ngờ tốn tiền mà con vẫn ?đói.

Chị Bông tiếp tục oán than:

- Đấy là em mới vắng nhà có gần 1 tuần, nếu vắng 2 tuần thì thể nào ba đứa con mình cũng?suy dinh dưỡng.

Anh Bông trêu vợ:

- Và nếu em vắng 3 tuần thì chúng vào cấp cứu bệnh viện cả rồi.

- Chứ còn gì nữa ! Bởi thế ca dao tục ngữ Việt Nam mới có câu ? Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ liếm lá đầu đường?. Vì người cha không biết lo cho con bằng người mẹ .

- Em nói gì mà qúa đáng thế chứ?Lần sau anh sẽ rút kinh nghiệm.

Chị vẫn cằn nhằn:

- Anh thật qúa lười, chỉ đặt nồi cơm và làm đồ ăn như kho tôm, kho thịt, tráng trứng, luộc rau như em đã chỉ dẫn là bố con có cơm ăn ngay mà anh cũng không làm. Ở Florida mỗi ngày em đều cầu nguyện cho các con được ăn no ngủ kỹ, mà kết quả thì ngược lại.

- Đùng một lúc em chỉ anh cách nấu nướng một đống các món ăn làm sao anh nhớ hết và biết làm ngay cho được? Với lại anh muốn nhân dịp này chiêu đãi các con như khách qúy, đổi mới cho các con được tự do ra ngoài ăn nhà hàng cho vui. Mà chúng nó vui thật em ạ, cứ chiều về là chúng nó ríu rít thay quần áo và lựa chọn nhà hàng?Tối đến thì cùng chơi đùa đến khuya mới chịu ngủ.

Chị Bông không có nhiều thì giờ tranh cãi với chồng, sau khi ?kiểm trả sức khoẻ các con xong là chị lôi quà ra cho con. Sau khóa training, ngày cuối cùng các nhân viên tha hồ dạo chơi Disney World, chị vào Gift Shop mua qùa cho các con, cô Tabi có sợi dây đeo cổ bằng những con sò màu hồng, và Betsy thì dây đeo cổ bằng những con sò màu trắng đúng như chúng đã mơ ước, ngoài ra còn có những con hải sản nhồi bông, còn bộ Puzzle của Holden, chị Bông phải thuê xe ra phố và vào tiệm mua cho nó, để thằng bé vui lòng.

Sáng thứ Bảy chị Bông đi chợ mua về một con cá Hồi Canada to, con cá nằm trong lớp đá vụn phủ kín thật tươi mát, bà nội trợ nào thấy mà chẳng muốn mua ngay. Chị nhờ anh thợ cá làm sạch sẽ và cắt ra từng khoanh cá màu hồng tươi và đẹp mắt..

Về nhà, anh Bông thấy vợ làm bếp, lân la đến gần:

- Hôm nay đầu bếp gia đình cho nhà ăn món gì mà linh đình nhiều thứ thế này?

Chị chỉ vào bịch cá khoe với chồng:

- Một con cá Hồi tươi ngon nhất chợ đấy nhé, chỉ hơn 30 đồng bạc tha hồ ăn, khúc đầu, khúc đuôi em sẽ nấu canh chua, vài khúc giữa em chiên sơ và rim nước mắm làm đồ mặn ăn cơm. Con cá này phải ăn hai ngày mới hết.

Anh Bông chép miệng tiếc rẻ:

- Thế mà mỗi ngày bố con anh đi ăn nhà hàng tốn tiền?hơn con cá Hồi này mà đứa nào cũng sụt cân..

Chị Bông lườm và mắng yêu chồng:

- Anh chỉ gây thiệt hại cho vợ con, chẳng nhờ vả được gì?

Bữa cơm nóng dọn ra. Cả nhà quây quần ăn uống vừa vui vừa ngon.

Vẫn là những món canh chua, cá kho chị Bông thường nấu trước kia, mà sao hôm nay anh Bông thấy ngon khác thường thế?

Thì ra anh cũng nhớ cơm, nhớ những món ăn Việt Nam, như thằng Holden chợt thốt lên một cách thèm thuồng với mẹ nó ở phi trường "Mẹ ơi con muốn ăn cơm với trứng" cái món ăn vừa rẻ vừa dễ làm ấy.

Anh cảm thấy ân hận khi mấy ngày qua anh đã không nấu cơm cho các con.

Bữa cơm gia đình bao giờ cũng là bữa cơm ngon, chẳng nhà hàng nào sánh được.

Chị Bông như đọc được những ý nghĩ trong đầu óc chồng, chị mỉm cười hài lòng:

- Anh và các con ăn cho lại sức đi nhé. Ngày mai em lại nấu cơm với món ăn ngon khác nữa, để bù đắp cho bố con anh. Bảo đảm mấy ngày sau sẽ lấy lại mỗi đứa 1 pao như cũ.

Nguyễn Thị Thanh Dương


Mục Lục


2. Hiến Chương Tình Yêu (truyện dài nhiều kỳ)

Tình Hoài Hương





Phần Thứ Nhất

Chương 10

Cánh Hoa Hồng Giữa Anh & Em





Đà Lạt có Lữ quán Thanh niên rất rộng lớn an toạ trên ngọn đồi cao. Lữ quán đầy đủ tiện nghi dành cho đoàn thể, công, cán, chính, sinh viên học sinh và giới cần lao. Câu Lạc Bộ lữ quán bán cơm bình dân, giá rẽ. Hội trường rộng mênh mông, đầy đủ phòng ốc cho mọi giới thuê mướn, hội họp, ở trọ. Dưới chân đồi Lữ Quán là đường Hàm Nghi, nhìn xuống thấp là phố Phan Đình Phùng khá dài chạy từ ngã ba Duy Tân đến cuối Ấp số Bốn. Từ Lữ Quán Thanh Niên nhìn về góc phải là khu Số Bốn có ?thành phố buồn? nơi an nghỉ của bao người ?chán sống?, họ quyết vĩnh viễn ra đỉ không thèm ngoảnh lại thế trần ô trọc... Đối diện với đỉnh đồi Lữ Quán là khu Domain de Marie. Bên trái là ngả ba chùa Linh Sơn an tọa trên một ngọn đồi rợp bóng cây, gần sát trường Trung-học Bồ Đề. Đi lên khỏi ngọn đồi cao, ta thấy trường nữ Trung-học Bùi Thị Xuân. Đứng sau lưng trường nầy nhìn qua viện Đại Học Đà Lạt uy nghi, xa thật xa là trường Lycée Yersin.

Một buổi canh khuya gần rạng sáng chủ nhật, các trường trong Thị xã Đà Lạt của Tỉnh, Quận, Hạt đã tập trung lên Lữ Quán Thanh Niên. Bởi do qúy ông bà Hiệu-trưởng cẩn thận chấp hành thông tư của Phó Tỉnh-trưởng Nội An, bắt học sinh đến chầu chực từ năm giờ sáng. Ôi! Thầy cô tưởng mấy ông bà bự sẽ đến dự lễ lúc sáu giờ sáng ấy chắc!? Dạ thưa!? giờ nầy qúy vị đó còn "úm" trong nệm ấm chăn êm, sức mấy ngu dại đi làm cái chuyện khờ me! Học sinh không dám cải lệnh thầy cô, thì ráng nai lưng ra chịu rét! Chiều hôm qua dưới sân cờ thầy cô tuyên bố học sinh sẽ bị trừ mười điểm trong học bạ, nếu em nào đi trễ, hoặc vắng mặt, dù bất cứ lý do gì. Các em học sinh sợ một phép, không chấp hành sao được.

Trời trở lạnh kinh khủng, cho nên mọi người ai nấy đều co ro, cúm rúm xuýt xoa run rẩy. Họ đứng chịu trận dưới bầu trời tối mờ ướt đẫm sương khuya. Đom đóm nhấp nháy bay chập chờn thành một chuỗi sao xinh xinh. Họ thở ra từng làn khói, mặt mày ai nấy đều xám xịt, xanh lét như màu lá vẽ trên khung lụa ướt. Nước sương mọng dính từng chùm tóc rối trên trán. Mấy đầu ngón tay ngón chân ai ai cũng bị teo tóp. Học sinh đứng như thế khoảng ba giờ liền có hàng ngũ chỉnh tề, dần dần không ai bảo ai, mọi người ngồi bẹp xuống bãi cỏ trước sân lữ quán, mặc sương giá thấm ướt đủng quần, người duỗi thẳng chân, người co tay giật cẳng, vặn mình kêu răn rắc, người gục đầu lên gối, ôm bộ giò mỏi mệt cứng đơ mà ngủ gà ngủ gật, (dân chúng thức dậy lúc bốn giờ sáng, đến nơi nầy chầu chực suốt gần năm giờ liền). Mãi đến hơn chín giờ sáng, thì loa phóng thanh ngừng phát nhạc hòa tấu, xướng ngôn viên vặn lớn haut parleur, thông báo mọi người chỉnh tề, chờ đón quan khách.

Có thiệp mời đến lữ quán nên Nam đi trong phái đoàn, chàng ngồi trên khán đài nói chuyện với Tuấn. Đám học sinh đau khổ ngồi bệt dưới đất, coi thật bệ rạc, dĩ nhiên họ tức lộn ruột lộn gan, vì nụ cười của một thanh niên trẻ trung nhất trong phái đoàn ấy. Sau ngôi sao sáng chói của đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân thì ?chàng? là thí điểm, là bình phông, là cái rốn vũ trụ, để các cô cậu học sinh choai choai dé dé xiú xíu nho nhỏ ngẩn ngơ nhìn vào? Một số ít bạn trai gái của Mười có biết ?nàng? là người yêu của ?chàng?, nên họ cố ý châm chọc, đay nghiến phê bình Nam, khiến bọn con trai càng cay cú rủa sã Nam trắng trợn. Họ muốn cho Mười mất mặt mà. Nhóm học sinh chỉ chỏ Nam, hậm hực cay cú, không ngại nói huỵch toẹt ra giữa đám đông nhiều từ chẳng hay ho chút nào không hề ngượng miệng:

- Thằng nào mặt còn hôi sữa, ngồi chễm chệ đó, bắt tụi mình chào đón hắn vậy?

- Nó chả ra cái thớ gì, mà bố láo.

- Phì phèo hút thuốc, coi cà chớn, dễ giận thấy mẹ à.

- Tao muốn lên dộng một cái, cho nó lọt xuống đài ghê.

- Lát nữa, thì mày nhừ đòn với chúng tao, nghe con!

Nàng rất bực bội khó chịu, nhưng nhớ lời ba dặn nàng:

- Thấy người hung ác, con im lặng chỉ ngả mũ cúi chào, "kính nhi viễn chi" mỉm cười, mà lẹ bước đi xa. Nghe.

Thế nên Mười im re. Không biết họ ganh tức chàng cái nỗi gì? Buổi lễ kết thúc lúc một giờ. Nàng cảm thấy khó chịu, buồn bực trong lòng, ấm ức, tức tức muốn điên, Mười lầm lũi ra về.

Xế chiều chàng đến nhà anh chị của Mười để dạy thêm cho Thơ, Mười môn Toán, Lý, Hoá. Học xong, cất sách tập vào cặp, Nam đã kể lại chuyện bọn học sinh ban sáng là: Trương Anh, Điều, Thiên, Tuấn Anh, Khôi, Lang, Bích, đã chận đường để gây sự, cầm dao găm đòi khiêu chiến với Nam, khiến Nam phải tìm cách né chạy. Chàng thật sự ngạc nhiên, vì Nam không hề quen biết bọn họ, mà bọn ấy nói: "nghinh há". Vã lại, Nam nghinh làm gì với hạng người bặm trợn, du côn du kề, cô hồn hết biết hỉ. Nam có nghe Mười kể sơ sơ về bọn họ ở trong lớp ưa quậy tưng trời đất. Nam có biết về trình độ thấu hiểu học thức của họ chỉ vừa đến đấy, đến đấy thôi. Nhưng việc yêu đương, côn đồ, ma lanh, gian trá, thì họ tiến nhanh rất xa. Mặt trơ trán bóng, tính tình lông bông, buông thả tình cảm trong những hộp đêm rẻ tiền, họ dang díu lăng nhăng với gái ăn sương, rồi hèn hạ trắng trợn đi rêu rao trong lớp, rống to cười ha hả; giống tên ma cô ở đầu đường xó chợ, lại hoan hỉ tự hào ta là kẻ bay bướm dày dạn, sành sỏi nhất. Dẫu sao? là con trai lêu lổng chuyên đi cua gái, thì cừ khôi, chứ sao người đời ưa gọi chúng là ?mặt chai mày đá? hì? Họ thành công vì đã làm cho các cô sợ hãi và tức cành hông, với kiểu trợn mắt phun khói thuốc lá phù phù vào mặt người đối diện. Họ bắt chước nhau bĩu môi, cà nghinh cà bật, so vai nhún lên nhún xuống, thân nhô lên hụp xuống đi kênh kênh ra oai cho khác đời. Họ tự xưng là ?cha, bác?, và thích nghe ?đàn em? kêu mình là ?đại cả.

Nam nghĩ đó là đứa trẻ miệng còn hôi sữa tự kiêu, khinh bạc. Mỉa mai thay cái thứ ngu như bò tót, mà cứ nghĩ mình là đại ca, là cha là bác thiên hạ. Ở đâu trồi ngoi ra từ trong lớp nầy lại tập họp cái bọn du thủ du thực, mặt mày chẳng sáng sủa, chả đôn hậu, chẳng đẹp hơn ai, có thể nói là dị hợm xấu xí. Bọn ?ngưu đầu mã diện, đá cá lăn dưa? như vậy, như vậy đó, vậy đó? mà cứ tưởng bở ta đây là "yên hùng mã tấu", ưa dợt le cho nổi đám nổi đình, càng làm ô danh đa số học sinh đoan chính. Nam dại gì mà dây dưa vào chứ.

Ở gần nhà chị Ba, Tuấn Anh là bạn học cùng lớp với Mười, hắn tới nhà chị Ba và tò le mách lẽo với chị, hắn không tiếc lời chỉ trích, nhạo cười Nam là tên hèn nhát, mà bày đặt kênh đời! Chuyện nhỏ không ra gì ấy đã đến tai các chị. Thế là hai bà chị lên án chàng dữ dội, nào là:

- Nam ở trong băng quậy, chuyên môn đi đánh lộn, giành gái giếc, đàng điếm?

Hai bà chị của Mười không chịu tìm hiểu nguyên nhân dữ kiện, mà chỉ nghe sự kiện xảy ra trước mắt, rồi vội vàng kết luận. Thật buồn thay! Mấy hôm nay Mười buồn bã vô cùng, chán trường, chán lớp, nhất là chán đám bạn bè cư xử thiếu tế nhị, ganh ghét ra mặt. Họ cố ý ngồi trước mặt Mười, dùng lời lẽ thô tục để bêu rếu Nam, cốt cho mình mất mặt giữa đám đông. Rõ ràng họ muốn gây hấn cả với nàng nữa, Mười hổ thẹn cúi gầm mặt xuống, hai giọt lệ rung rinh trên khoé mắt (mà Mười lầm tưởng họ là mấy bạn thân quen, tử tế). Nhớ khi trước chưa xảy ra chuyện, Mười nhìn các bạn sao họ dễ chịu và dễ mến thế! Bây giờ, họ đã tự lột mặt nạ ra lúc nào, khiến Mười kinh hãi, sợ họ hết biết, không dám xớ rớ lại gần chạm mặt! Thầy Đệ văn võ song toàn dạy trong Võ Bị còn khiếp sợ họ, muốn rút lui không dạy lớp nầy, huống gì ai.

Hôm nay Mười đã cúp cua hai giờ toán, Nam và Mười đi lang thang suốt đường Hoàng Diệu, Duy Tân, lên Phạm Phú Thứ, Huỳnh Thúc Kháng, Pasteur. Đi trên các nẽo đường, Nam đọc chuyện Bonjour Tristesse của Francoise Sagan. Bà nầy theo chủ thuyết hiện sinh. Mười không thích chủ thuyết ấy tí nào. Vì: không vì nguồn cội, không vì tha nhân, không vì người yêu qúy, mà chỉ vì chính mình. Thì thật là quá ích kỷ.

Ngồi trên hàng rào xi măng, bên khu biệt thự vắng. Mở tập học cuả Mười ra, Nam hỏi:

- Chiều nay, em cúp cua hả?

- Mười "dạ" lí nhí trong cổ họng. Nam lắc đầu, nói tiếp:

- Ôi trời! Cái gì đây. Em?

Mười giật mình, nhìn vào hướng chỉ tay cuả Nam, không dám cười, nàng cúi đầu nói nhỏ:

- Hai con? oóc toọt.

- Vì sao vậy?

- Lâu lắm rồi, em lỡ dại quậy phá trong lớp. Không thuộc bài nữa. Nên bị...

- Nếu em không hiểu bài nầy, thì sẽ không hiểu bài khác. Em hiểu không? À, hiểu rồi... làm ơn cho anh mượn cây thước kẻ.

Mười sợ Nam (chứ em không sợ cây thước kẻ đâu anh). Hai mái đầu xanh chụm lại dưới hàng cây giao nhánh bên đường, cùng chia sẻ học bài một hồi lâu. Khi thấy Mười thực hiểu bài, Nam cười, khen:

- Em của anh thông minh, nhưng phải cái tội? em "lì và lười" kinh khủng.

Hờn mát, Mười ôm cặp bỏ đi. Nam đi theo sau Mười, gọi:

- Đứng lại! Một tiếng. Hai tiếng. Ba tiếng? Đứng lại!

- ?

- Không đứng lại thì anh... đi theo em luôn.

Nhưng đi ngược lại phiá cổng sắt, Nam mở cửa vào ngôi biệt thự kế cạnh. Mười chưng hửng đứng long ngóng ở ngoài. Không hiểu Nam tán hay ho thế nào, mà người gác dan đã cắt cho chàng năm cành nhung hồng tuyệt đẹp. Nam đến bên Mười, đầu chàng nghiêng nghiêng, miệng cười chúm chím, Nam đặt hoa giữa làn môi hai người, họ ỏn ẻn cười tình, cả hai ríu ra ríu rít hôn lên đóa hoa hồng thơm ngát. Qua kẽ hở đều giữa những phiến lá răng cưa xanh xanh, Mười e e thẹn thẹn, nhìn nhìn, liếc liếc, hít hít, hôn hôn. Hơi thở Nam ấm nồng... ngất ngây len len lỏi lỏi từ bờ môi nầy, chuyền sang vành môi kia; quyện với hương hoa hồng thoang thoảng thơm thơm, khiến Mười càng ngây ngây, ngất ngất... bừng bừng nhột nhạt rờn rợn đến dại khờ.

Chàng quàng tay qua vai nàng dìu nhau đi về lối nhà, và hai bạn chia tay ở đầu con dốc đứng cong cong uốn lên uốn xuống, khi phố núi giăng mắc sương mù dày đặc đã lên đèn. Các bè mây xô xô đẫy đẫy, gặp gỡ nhau trên bầu trời vàng tím buổi hoàng hôn xiên xiên lảo đảo. Chiều lụi tàn dần dần trong ánh sáng mờ mờ, đục đục. Gió nhè nhẹ phe phẫy hàng bông giấy đong đong, đưa đưa? quệt lui quệt tới bên góc tường vi. Chim chóc hót líu lo, ríu rít chuyền cành chen nhau vào tổ ấm.

Mười cắm mấy cánh nhung hồng vào lọ sứ, nàng đem đặt trên phòng khách. Thay áo quần xong, Mười vừa ngồi vào bàn ăn, thì chị Khánh cho biết:

- Chị đã đến trường em học hồi chiều.

Nàng bủn rủn cả tay chân, thân thể chân tay run lẩy bẩy hầu như lảo đảo muốn rụng rời. Chị Khánh giận dữ la mắng, tra hỏi Mười đủ thứ chuyện. Dù nàng có nói thế nào, chị Khánh vẫn không tin việc Mười cúp cua hôm nay, là do tự ý nàng thấy chán trường, chán bạn bè trong lớp. Chứ hoàn toàn không hề có chuyện do Nam xúi giục. Chị Khánh quả quyết chính là do Nam rủ rê xúi giục, nên Mười mới trốn học đi lêu lỗng, phá phách trong lớp. Chị có trăm lý do để buộc tội Nam dụ dỗ em của chị. Mười không có cách gì thuyết phục, hay gây dựng niềm tin trong lòng chị. Chị đùng đùng nổi giận, phẫn nộ thực sự, sự phẫn nộ bùng nổ như lửa cháy; làm tiêu tan căn nhà tình yêu lý tưởng đơn sơ trong sáng của Nam Mười chỉ trong nháy mắt.

Mười biết mình có lỗi trong việc nghỉ học, nên không dám dùng ngày giờ ngắn ngủi còn lại đi gặp Nam, hầu chia sẻ, và xóa đi nỗi đớn đau trong lòng. Mười thấy lòng vỡ tan từng mãnh vụn, Mười không dám nghĩ tới ngày mai sẽ ra sao, khi chị Khánh buộc Mười bốn điều:

- Đi nói lời tuyệt giao với Nam.

- Nghỉ học.

- Chị trả Mười về Huế ở với cha mẹ.

- Chị đã đánh điện tín gọi má vào rước Mười về quê.

Chị nói:

- Nếu thằng Nam thực sự yêu thương mầy, thì trong vòng mấy ngày nay, khi ba má lên tới Đà Lạt, là thằng Nam lo liệu mà tới đây làm đám hỏi. Nghe. Còn bây giờ, tao cấm cửa.

Trời! Đi hỏi vợ, chứ có phải chỉ là một món hàng trao đổi tầm thường, không cần chuẩn bị gì cả sao ta? Mười ứa nước mắt, ấm ức khóc thầm trong lòng. Mình không có quyền hạn gì về mọi quyết định cho chính bản thân. Nàng không trách chị quá khắt khe, độc đoán, hay Mười nghi ngờ lòng chị mến thương em. Mười chỉ kinh ngạc là chuyện đâu đến nỗi nào to tát đến thế. Ví dù em bỏ học vài giờ, thì chưa đến nỗi nào em bị thất học, khiến chị có thể nghiêm cấm và cương quyết bắt buộc em đủ mọi điều. Chị chỉ cần la mắng em, răn đe em đây là lần đầu tiên, cũng có thể là lần cuối cùng - em sẽ không dám tái phạm. Sau đó, nếu chị thấy em tính nào vẫn tật ấy, em không sữa đổi, thì chị quyết chí ra tay, vẫn chưa muộn kia mà! Nhưng... Vấn đề chính không phải là ở chỗ đó, nhân chuyện Mười bỏ học hai giờ, thêm chuyện em còn trẻ mà yêu thương Nam, thì chị muốn trả Mười về cho ba má ?coi chừng nó?, để chị khỏi có trách-nhiệm-vụ, lo cái bổn-phận-sự là nuôi em. Khỏi mang tiếng với gia đình chồng là nuôi em "báo cô". Sự thật thì ba má vẫn gửi ngân phiếu vào cho Mười đóng tiền ăn học. Làm chị, thì chị Khánh phải biết lúc nào chị nên cứng rắn, lúc nào chị nên ôn hòa, ngọt ngào thân thiết; thì em cúi đầu kính phục và ngưỡng trọng chị. Cách xử sự của chị quá gay gắt, khắt khe, khiến lòng Mười càng đau đớn, tái tê hơn. Em sợ gia đình chị vì em mà ồn ào, nhưng em không phục chị!

Phần Nam, anh ta không thể tự biện hộ điều gì cả, khi chị Khánh không muốn tiếp Nam. Thấy chàng, chị im lặng, mặt chị lạnh như tiền, chị đùng đùng đóng cánh cửa lớn cái ?rầm?, rồi chị hầm hầm quày quả bỏ đi.



***

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.

Trân trọng

Tình Hoài Hương

Mục Lục


3. Vực Sâu


Vành Khuyên



***

Hắn bằng lòng liên lạc với ả thường xuyên. Dù là tình cũ, nhưng người đàng Đông, người đàng Tây, sợ đếch gì. Đời sống thêm chút mắm muối cho nó khoẻ người ra, ngán ai.

Ả ban đầu cũng rất rụt rè. Dầu gì cũng mới ly dị sau bao sóng gió của hôn nhân. Cái giấy ly dị cầm trong tay ả cũng không cần đọc đúng tên mình không, cất bà nó trong hộc tủ. Người thì đã đi xa bao lâu rồi, giấy tờ còn ra cái trò gì nữa. Có lộn tên khác càng hay, giấy tờ ở đây lộn hoài chứ gì. Người ta lộn người ta sửa, ả không lộn là được rồi.

Ả cũng không biết mình tìm gì ở hắn. Ả cũng bỏ hắn đi bao năm, chung đụng với nhiều người khác. Thấy cũng không ai bằng hắn vì đời sống ở đây chạy theo đồng tiền quá, tình yêu, tình nghĩa gì cũng như món đồ xa xỉ, đi lễ lộc gì người ta mới quàng vào cho nó sang chứ đời thường tìm mỏi mắt không có.

Ban đầu nói chuyện cho vui, cả hai đều giữ ý tứ lắm. Dầu gì hắn cũng còn có vợ bên cạnh. Dù cơm chẳng ngọt, canh chẳng lành đôi khi nhưng cứ nghĩ mà coi, gia đình nào chả vậy. Yên lành tất thì có khi họ từng hẹn nhau kiếp trước nên gặp lại nhau kiếp này hay một người đã thành thánh mới có điều hi hữu vậy trong đời thôi.

Bao năm rồi nhỉ, ả và hắn sống lại trong những phút vui vẻ qua điện thoại của tình yêu thuở trước. Hắn tin mình không lạc bước sau mỗi lần nói chuyện hắn luôn giữ tình yêu với vợ hắn, hắn tin mình vô bờ. Còn ả thì ai cho lòng thương hại hay tình yêu lúc hụt hẫng này, dù không phải là tình yêu thành thực đi chăng nữa nhưng từ bờ môi chỉ run run bật khóc, cũng từ đó nay lại phát ra tiếng cười cũng thấy đời đáng sống hơn rất nhiều. Vậy là mọi việc cứ tiếp tục như thế có ai thấy gì khác sau đó đâu.

****

Anh, em cần anh vô cùng ... nếu anh không hợp với vợ, ly dị đi anh, em bảo lãnh anh qua đây ...

Hắn giật mình, từ đó giờ nghĩ ả tự trọng, vui chơi là vui chơi dù hắn nghĩ chút gì cũng vô nhân đạo khi đùa giỡn tình cảm với ả và bộc lộ sự ngán ngẩm bà vợ ở nhà dù điều đó cũng bình thường như chuyện hàng ngày ở huyện.

Nếu em thấy không tự nhiên khi nói chuyện với anh, em có thể ngưng, mỗi người có cuộc sống riêng, anh nghĩ mình không nên khuấy động ...

Ả như từ trên trời rơi xuống. Trong thâm tâm, khi hắn nói chuyện đưa đẩy thế ả vẫn nghĩ ả và hắn sẽ cùng nắm tay lại đi trên con đường đầy lá me bay thơ mộng ngày nào. Ai dè ... ah " ông tưởng tui là đồ chơi của ông đấy hả ".

Ả muốn điên lên, tự vùi mình trong những khổ lụy của bao nhiêu năm về trước khi hai người mới xa nhau. Ả chợt thấy sao mà mình ngốc thế, cứ để đàn ông nó dày vò, nó đùa cợt. Ả kêu trời, còn bao lâu nữa tôi mới được một người đàn ông đàng hoàng tử tế nói lời yêu thương đây hay mãi chỉ là những lời nói tạm bợ không bao giờ mang ý nghĩa gì cả như thế này ...

Ả thầm tính toán, đường đi nước bước hẳn hòi. Lần gọi cho hắn nhiều hơn, trích ra chút tiền về cho hắn ăn xài, hắn cần gì ả cũng đáp ứng từ xa, mua người hay mua lòng, kệ hắn nghĩ, miễn là ả có hắn trong tâm tưởng. Vợ hắn có bên cạnh cũng như không là đủ cho lòng tự ái của ả bị hắn chà đạp nó lành lại rồi.

Dời non lấp bể, đàn bà còn làm được chứ huống gì mua một thằng đàn ông.

****

Anh đã nộp đơn ly dị vợ, vợ anh cũng xốc lắm nhưng anh sẽ nói với toà, trước giờ anh chỉ thương em ..

Ả cười bí hiểm, anh đợi ra toà có giấy ly dị hẳn hòi gửi qua cho em làm giấy tờ bên này nha.

Hắn về nhà nhìn người vợ bao nhiêu năm, nhìn mãi mà cũng chưa hiểu ra hắn đang làm gì. Vợ hắn ký vào đơn ly dị vô hồn vì cũng không ngờ cái chuyện cô dễ dãi để chồng liên lạc với bạn gái cũ nó ra nông nổi này. Lòng tự trọng không cho phép cô kéo chồng lại vì tình nghĩa chi nữa đâu.

Ba tháng sau, quan toà gọi lên đưa mỗi người một mảnh giấy. Hắn gật đầu chào vợ rồi ra bưu điện fax cho người tình mảnh giấy này xem như cứu cánh hắn thoát khỏi hoàn cảnh bối rối hiện tại.

Vừa fax xong, hắn cất công gọi qua Mỹ cho người tình lần đầu, những lần khác toàn ả gọi về.

Em à, giấy xong rồi, em nộp đơn nhanh đi nhé.

Bên đầu dây bên kia hắn nghe tiếng cười man rợ vọng lại, hắn không hiểu từ âm ty hay từ Mỹ mà ác độc vô cùng ...

Tôi giữ giấy này làm bằng chứng cho tội ác đàn ông các anh làm khổ chúng tôi, anh nghĩ tôi yêu thương anh thật sao ... Đàn ông các anh là lũ quỷ, thấy thanh nhã , sung sướng là lao vào, mặc tình nghĩa, tự ái, tự trọng. Đàn ông các anh còn ác hơn quỷ sứ.

Tôi chẳng hại gì anh, tôi cho vợ anh biết bộ mặt thật của anh và cho anh bài học làm một thằng đàn ông chân chính. Giấy tờ gì, bộ anh nghĩ anh qua Mỹ anh từ một thằng đàn ông tham lam trong bản chất thì xã hội Mỹ có thể biến anh thành thằng đàn ông đàng hoàng được sao.

Đồng tiền cả đó, sang thì người ta đón rước như ông hoàng, còn nghèo hèn chỉ khổ bị chà đạp nếu không còn lòng tự trọng đứng dậy chửi thẳng vào mặt kẻ không phải với mình, anh hiểu không ...

Hắn không còn thấy gì khác ngoài cái vực sâu hoắm trước mặt và hắn nghĩ hắn chỉ còn có mỗi lựa chọn là nhảy xuống và chết đi cho rảnh.

Trời ơi trời.

Dạy con từ thuở còn thơ, từ đây là châm ngôn cuộc đời tôi bạn ạ.

Vành Khuyên



Mục Lục


4. Căn Nhà Sau Cửa Biển (truyện dài)


Phan Thái Yên






Vì lý do kỹ thuật xin tạm nghỉ 1 kỳ. Chân thành cáo lỗi cùng độc giả .





Phan Thái Yên


Mục Lục


5. Cút Bắt Trò Chơi


Hai Hùng SG





Tôi được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất sài gòn, nơi mà một thời mệnh danh là Hòn ngọc Viễn đông , nói là nói vậy cho oai chứ kỳ thực thời ấy từ thủ đô sài gòn mà đi vào nơi tôi sinh sống cách nhau tròm trèm gần năm cây số, thậm chí đôi lúc từ ngữ trên báo chí ngày xưa trước năm 1975 người ta còn cho nơi đây là vùng ven đô, đất nước nói chung và Sài Gòn nói riêng thời ấy thật thanh bình, cái tình người thắm thiết chan hòa mà quả thật vậy vào những năm 1960 lúc ấy tôi còn là đứa trẻ ăn chưa no lo chưa tới sau những giờ học ở trường thì cả bọn con nít trong xóm tôi xúm xít bên nhau chơi những trò của con trẻ , thời bấy giờ trò chơi chủ yếu là những trò tiêu khiển tốn rất ít tiền như : đánh đáo bằng những đồng tiền loại 5 cắc có in nổi một mặt là Tổng thống của nền đệ nhất cộng Hòa mặt bên kia là hình bụi tre là biểu tượng quốc huy, còn các đồng xu nhỏ hơn thì có hình cô gái đầu búi tóc thật cao trông thật khỏe mạnh, hoặc chơi trò năm mười mười lăm hai muơi ..

Một hôm, sau cái màn tay trắng tay đen, thằng Thành là đứa bị nhắm mắt úp mặt vào tường để cho cuộc chơi được bắt đầu :
- Năm mười, mưòi lăm, hai mươi ... , một trăm .

Nó xòe bàn tay và vỗ mạnh 3 cái vào vách tường, đồng thời đếm tiếp :

- Một hai ba, đứa nào chạy ra bị bắt ráng chịu .

Trong lúc thằng Thành đang năm mười thì cả bọn chúng tôi túa đi khắp nơi, đứa thì leo lên cây, đứa thì trốn trong chòm mả nơi có những ngôi mộ làm bằng đá ong cũ kỹ . Đứa thì lẫn mình vào mấy bụi tre, nhưng thường thì những bụi tre thì mấy đứa tụi tôi không thích trốn ở đây, vì đơn giản là dễ bị gai của Tre cào gây thương tích, khi tàn cuộc chơi về đến nhà thế nào cũng được ba má cho ăn bánh tét nhưn mây , thét rồi đứa nào cũng né chỗ trốn hắc ám đó hết, nhất là mấy đứa con gái trong xóm không bao giờ chúng bén mảng đến bụi tre, chòm mả do sợ ma, cứ như vậy đó con trai bọn tôi suy ra yếu điểm này nên tìm đến nơi sạch sẽ là xí được các cô nàng liền .

Tôi nhớ hôm đó thằng Cu, con của bà Mười Quán phá lệ, nó chui vào trốn trong bụi tre gai bên vệ đường mà không ai biết, nó nằm im thin thít trốn rất kỹ, cả bọn nhóc tụi tôi đều bị thằng Thành xí hết ráo, chỉ còn lại một mình thằng Cu là chưa thấy tăm hơi của nó đâu cả, bầu trời dần mờ tối những bóng đèn điện vàng vọt bắt đầu bật sáng bên đường, cả bọn lo lắng vô cùng, bỗng tiếng thằng Lập một đứa trong đám bạn nói rú lên :

- Ơi tụi bây ! Có khi nào thằng Cu bị ma giấu không ta ? mấy ngày trước tao nghe ba tao nói cái xóm đường đất đỏ của mình có ma đó .

Nghe thằng lập nói đến đây tự dưng tôi thấy mình bị hiện tượng nổi da gà như có một luồng điện chạy tê rần nơi sống lưng, vì câu nói của thằng Lập nó trùng với câu chuyện chú Út tôi kể cho lũ trẻ trong xóm nghèo mỗi khi đêm về, chú kể rằng :
- Mấy đứa bây biết không, hồi đó thời người Pháp còn ở Sài Gòn mình chú cũng còn trẻ, ba của chú nói ngày xưa có bà Tám ngụ tại cái xóm chuồng Trâu, xóm này nằm gần chùa Giác Quang ở chợ Cây Thị, đặc biệt khi trời về khuya chừng khoảng mười giờ thì tiếng rao hàng ngọt ngào của bà Tám vang lên :
- Ai chè đậu đen, bột báng, nước dừa, đường cát trắng hông .

Có hôm bà Tám vừa đặt gánh chè đậu dừng lại nghĩ chân nơi mấy bụi Tre gai ven đưòng, tiếng rao lảnh lót của bà Tám vang lên mọi khi, đứa cháu gái nhỏ đi theo phụ bà Tám bán hàng, nhiệm vụ nó là cầm cái đèn bão loại đèn ngày xưa có bốn mặt kiếng chung quanh , có khi đuợc sơn thêm màu xanh, đỏ vàng lên kiếng để tránh chóa mắt người đi đường .đèn này dùng nhiên liệu là dầu hỏa mà dân miền nam hồi đó gọi là dầu hôi bên trong có sợi tim đèn bằng sợi bông chắc chắn, đèn phát ra ánh sáng vàng rất tiện lợi cho những người nghèo buôn gánh bán bưng như bà Tám, nó còn công dụng chống được những cơn gió lớn mà đèn không bị tắt nên người ta đặt tên cho nó là đèn bão, còn những tiệm quán sang trọng hồi đó thì xài đèn " Măng xông " loại đèn hiện đại của người Pháp du nhập vào Việt Nam, cũng xài bằng dầu hôi, nhưng có thiết kế cái bơm hơi làm tăng áp suất trong bầu đèn, khi đốt đèn thì nhờ áp suất này tim đèn cháy cho ánh sáng trắng khác với đèn dầu Hoa Kỳ một trời một vực .

- Gái Ba ! Mầy đem đèn tới đây để dì Tám đảo lại nồi chè để nó khỏi bị khét coi con .

Con Gái Ba làm theo lời bà Tám, khi nắp nồi chè đậu được mở , khói ùa bay lên gió cuốn đi mang cái mùi hấp dẫn của nồi chè len lỏi vào những căn nhà lân cận ven đường, cũng nhờ vậy mà cả cái xóm đường đất đỏ nhỏ bé của chúng tôi là thân chủ hàng đêm của bà Tám .

Vơ cái vá khuấy nhẹ nồi chè, khi ngước nhìn lên thì đâu trước mắt bà Tám xuất hiện gần cả tiểu đội lính " Pặt tê giăng" súng ống đầy đủ, hình như họ đang đi làm nhiệm vụ gì đó, nghe mùi thơm lừng của nồi chè nóng hổi của bà Tám khiến họ không cưỡng lại được, sà xuống vây quanh gánh chè, cả bọn họ nói cười rôm rả vừa đưa miệng húp rồn rột, mới thoáng một chút mà mỗi chú lính thanh toán gọn ba chén chè vô bụng, chú Út còn nói tiếp nghe đâu có ông lính chưa đã thèm, còn lấy cái cà mèn mua thêm mang về đồn để ăn tiếp, ăn uống thỏa thê xong thì một người lính ra dáng là sếp móc tiền trả, ổng còn hào phóng " poa " luôn cho bà Tám phần tiền thay vì phải thối lại cho họ .Nghe đâu nhờ cái " vía " của mấy ông Tây nên chỉ loanh quanh gánh đến đầu đường là nồi chè bán hết sạch . Bà Tám và gái Ba trở về nhà, gái Ba lui cui dọn dẹp rửa ráy chén muỗng còn bà Tám thì ngồi lọm khọm đếm tiền, vừa trút rổ tiền ra " Bộ đi văng " bà Tám thất kinh hồn vía la làng :

- Ma .. Ma bớ người ta có ma, gái Ba ơi..cứu dì ..... với .

Bà Tám kêu được như thế rồi tự nhiên bà thấy hai quai hàm như có ai bóp chặt khiến bà trừng mắt không thốt thêm được lời nào .Nguyên nhân trong số tiền bà vừa trút ra thì gần phân nửa là giấy tiền " vàng bạc " một loại giấy tiền dùng cho người cõi âm do mấy ông ba Tàu ở Chợ Lớn phát hành .

Bà con lối xóm nghe tiếng la của bà Tám thì mọi người tông cửa nhà chạy đến rất đông họ tưởng nhà bà bị trộm cướp viếng thăm . Khi tỉnh hồn lại bà Tám mới kể kể sự tình và đoan chắc rằng tiền âm phủ này là do mấy chú lính khố xanh khố đỏ gì đó đưa cho bà .

Bà tám quả quyết :

- Mấy ông tây này chắc chết trận được chôn phía đồng mả ở cạnh cầu hang xe lửa cũng nên.

Chuyện ma cỏ hư thực thế nào không rõ , nhưng Kể từ đêm sau bà Tám giải nghệ không bán chè đêm nữa, nghe đâu bà con trong xóm cũng buồn buồn vì từ đây không còn nghe tiếng rao hàng thân thương và cái mùi chè đậu đen nước cốt dừa đường cát trắng ngọt ngào thoang thoảng trong đêm nữa rồi, và cũng do ám ảnh cái rổ tiền vàng bạc hôm ấy nên bà Tám dọn nhà đi biệt xứ từ đó ...

Vậy mà đêm ấy, thằng Cu con bà Mười quán nó trốn biệt ở đâu ? mà có ma thật hay không ? giả sử có con ma nào đó hiện ra lúc đó trước mặt chúng tôi thì tôi tin chắc rằng ít ra phải có một vài đứa té xỉu, một ẩn số mà lúc bấy giờ chúng tôi chỉ lò mò đoán già đoán non mà thôi . Con Hồng đứa con gái tham gia trò chơi được chúng tôi cử về nhà thằng Cu để báo hung tin :

- Bà mười ơi ! Anh Cu chơi năm mươi với tụi con không biết ảnh trốn ở đâu tụi con tìm không ra . Tụi con sợ quá nên báo cho bà Mười nè .

Bà Mười hoảng hốt chạy đôn chạy đáo đầu trên xóm dưới để tìm cho ra thằng con quý tử của mình .

Tin thằng Cu mất tích, lời đồn đại nó bị ma giấu gây rúng động cho lũ nhóc trong cái xóm nhỏ này .

Thế là cả xóm, người cầm đèn cầy, kẻ cầm đèn dầu tìm tòi hết mọi nơi cuối cùng cũng thấy nó đang khò khò trong bụi tre gai .Nó mãi trốn cố giấu mình thật kỹ, rồi nằm mơ màng gặp những cơn gió thổi hiu hiu làm cho đôi mắt nó sụp mí hồi nào không hay, đến khi nghe tiếng kêu ầm ĩ của mọi người nó mới lòm còm bò ra khỏi cái bụi Tre gai, bà Mười gặp nó bà mừng rơi nước mắt, nhưng cũng không quên gõ vào mông của nó hai cây roi mây kèm theo lời hăm :

- Còn chơi kiểu này lần nữa là má không cho mày đi chơi nữa, nghe chưa cái thằng kia .

Như biết lỗi, và ân hận đã làm mọi người hốt hoảng vì mình, thằng Cu tha thiết

- Con xin lỗi má, con không dám vậy nữa .

- Hứ chơi bời trốn tìm mà chui vô bụi rậm, ma nó chưa giấu bây thì rắn nó cũng cắn bây có ngày đó mấy con ơi .

Sau lần tai nạn đó bọn tôi thôi không còn chơi trò trốn tìm nữa . Còn nhiều nhiều trò chơi của tuổi thơ yêu dấu nữa như :nhảy lò cò, chơi u, chơi ăn ô quan, thả diều, đá dế, câu cá, chia phe đánh trận như những người lính chống chọi với quân thù, ngày đó trong đám tụi tôi đứa nào phải làm quân địch trong cuộc chiến thì y như rằng đứa nào cũng tiu ngỉu chấp nhận làm phe ác một lần đó thôi, nếu lần sau mà chơi trò đánh trận thì phải đổi phe lại cho công bằng, có mấy cô bác lớn tuổi biết chuyện này đã lên tiếng :

- Mấy đứa nhỏ coi vậy chứ tụi nó cũng biết phân biệt chánh tà lắm nghe, làm phe địch là xấu nên hỗng có đứa nào vui hết trơn hết trọi á .

Cái năm tôi thi đậu vào lớp đệ thất, cả nhà tôi ai cũng mừng rỡ, tháng đó sau khi lãnh lương của hãng xong, để khao tôi có được cái thành quả vừa qua trong học hành, chiều hôm nọ ba nói :

- Chiều nay ba thưởng cho xem phim cầu sông wai hay lắm, con nói thằng Lập, Thằng Kháng, với con Hồng nữa xin phép nhà nó cho đi chung với con luôn .

Nghe ba tôi nói cho mấy đưa bạn cùng đi xem hát bóng với mình tôi mừng ra mặt, mấy đứa ba tôi vừa kể tên cũng đạt kết quả tốt kỳ thi vừa rồi, tôi khẽ cám ơn ba và chạy nhanh đến nhà báo tin vui cho bọn nó, con Hồng mẹ nó đang bệnh nặng, ba nó thì đi chiến trường chưa về, ở nhà còn hai mẹ con hủ hỉ với nhau nên nó không đành lòng tìm niềm vui riêng cho mình .

Gần đến giờ hẹn , con Hồng mới lò dò đến nhà tôi, nghèn nghẹn trong lòng nó nói :

- Mấy anh đi chơi vui vẻ, coi hát xong về kể lại Hồng nghe cũng được mà . Má Hồng trở bệnh nặng, Hồng phải canh chừng má, chứ không thì ....

Con Hồng nói giữa chừng rồi nó ù chạy ngay về nhà .Tôi kịp nhận thoáng qua đôi mắt buồn buồn của Hồng đã đỏ hoe ngấn lệ ...

Ba tôi dẫn chúng tôi lội bộ ra đến đầu ngã ba đường để đón xe, chiều vẫn còn chút nắng, không khí oi nồng, hơi nóng vẫn còn hắt lên từ con đường nhựa nơi chúng tôi đang đứng chờ xe, thỉnh thoảng cũng có chút gió thổi nhẹ qua làm dịu bớt đi cái nóng bứt rứt trong người .

Chiếc xe Ngựa vừa tấp vô sau cái vẫy tay đón của ba tôi, chủ xe một người đàn ông luống tuổi, ông trạc cở tuổi ba tôi, mặc trên người bộ " Pi ja ma " màu đen có ba cái túi áo thật lớn, tôi thấy ông bỏ trong đó nào là thuốc rê, hột quẹt, giấy tờ gì đó, và túi ông đựng tiền nằm phía trên ngực . Chiếc nón nỉ đẹp đắt tiền ông hay giở lên chào khi có khách lên xe, một phong cách mà thời nay dễ gì còn gặp lại, . Con Ngựa thì mang cặp kiếng bằng da màu đen che hờ đôi mắt, nó chỉ quan sát được phía trước, không thể nhìn hai bên, sau này tôi khi đi xe quen thân với chủ xe Ngựa thì ông mới giải thích :
- Sở dĩ che như thế cho Ngựa khỏi giật mình khi có xe qua mặt nó, để nó
không sợ mà gây ra tai nạn .
Trên đầu con Ngựa ông gắn một chùm lông đuôi của Gà trống trông thật oai phong, quanh cổ nó được đeo cái vòng lục lạc, mỗi khi Ngựa phi trên đường nhựa , bốn vó gỏ lốc cốc hòa theo tiếng reo của lục lạc tạo thành âm thanh rất vui tai .

Sau này chúng tôi học năm đệ thất một trường gần chợ Bà Chiểu, đi riết thành mối của ông Tám xe Ngựa, trong đám tụi tôi chỉ có mình tôi là ông Tám ưu ái cho ngồi gần ông phía trước, vì ngồi vị trí này thòng hai chân xuống khỏi phải cởi giày, còn lũ bạn tôi thì lên xe phía sau phải cởi giày ra xỏ vào cái móc bên hông xe, đến nơi mới được mang giày lại như cũ vì trong lòng xe chật hẹp vả lại mang giày dép vào thì làm dơ tấm đệm lót dưới sàn xe thì không hợp vệ sinh cho lắm, đi xe Ngựa cũng lắm thú vui, nó cũng tròng trành như ghe gặp sóng lớn đôi khi Ngựa dở chứng khiến cả xe ai nấy mặt xanh như tàu lá chuối vì sợ rớt xuống đường do chú Ngựa tung 2 vó trước lên cao khiến xe nghiêng hẳn về phía sau ...

Cuộc sống cứ thế êm ả trôi theo tháng ngày . Tôi còn nhớ, năm 1963 Sài gòn sục sôi những biến động, năm đó bên quân đội họ làm đảo chánh, trực thăng mang " rốc két " bay gần sát nóc nhà tôi, họ bắn đại liên trên máy bay hướng vào Dinh gia Long, vỏ đạn rớt lộm cộp trên mái tole nhà, cô bác chung quanh sợ hãi vô cùng, sợ sệt trong tình hình này vài gia đình tụ họp lại những căn nhà kiên cố trong xóm cùng nhau ở đó có gì xảy ra khi tắt lửa tối đèn có nhau thì yên tâm hơn, người lớn ai cũng trong dạ nao nao chờ đón thời cuộc, còn bọn con nít thì được dịp gần nhau thường xuyên thỏa thích chơi đùa, chúng tôi đâu có biết rằng cha mẹ chúng tôi đang rầu thúi ruột, thúi gan khi đất nước đang tranh tối tranh sáng của hai phe ...

Rồi cuộc đảo chánh thành công, nền đệ nhị Cộng hòa hiện diện trên quê hương ....

Năm 1968, một lần nữa Sài gòn cũng như cả nước, khói lửa tràn lan, tôi và gia đình cũng suýt chút nữa " tiêu diêu miền cực lạc " bởi một trái đạn cối rớt trước sân nhà, cũng may là chúng tôi trốn kỹ trong hầm ngầm dưới đất, nếu không thì không có cơ hội bây giờ ngồi đây ghi lại những hình ảnh thân thương đang mờ dần trong ký ức .

Rồi thì sóng gió cũng qua, đến giữa năm 1970 là năm đám trẻ con ngày xưa chúng tôi đến tuổi lên đường nhập ngũ làm bổn phận công dân trong thời chinh chiến .

Tôi, thằng Kháng , thằng Lập cùng vào lính một ngày . Buổi đầu tiên vào nơi tiếp nhận, ba đứa chúng tôi đều mang tâm trạng nhớ nhà kinh khủng, mặc dù mới rời khỏi tổ ấm gia đình chừng vài tiếng đồng hồ, nhưng đêm ấy với chúng tôi nó dài thăm thẳm . Nằm cạnh bên nhau chúng tôi tâm sự, tôi nói nhỏ vừa đủ cho thằng Lập và thắng Kháng nghe :

- Không biết chừng nào mới vô quân trường hả tụi bây ? Rồi lăn, lê, trườn, bò nữa . Mà tao nghe nói ở quân trường cái chuyện tắm giặt khổ sở lắm, nghe mấy ông anh trong xóm mình đi lính về kể lại, mùa khô thiếu nước sinh hoạt lắm.

- Ôi hơi đâu mà lo mầy ơi, chừng nào cũng được, chuyện tắm giặt thì mày làm như vầy ... như vầy ...

Thằng Kháng cố tạo ra chuyện vui để chúng tôi quên đi nỗi nhớ nhà, nó thì thầm bên tai tôi tưởng đâu nó hiến kế gì hay để có giải pháp tốt đối phó với khó khăn sẽ phải đối mặt sau này nên tôi chăm chú nghe, thằng Lập cũng xích lại gần cả ba đứa chúng tôi chụm đầu vào nhau trao đổi câu chuyện, bất chợt ai nhìn thấy hình ảnh này có lẽ sẽ để lại nhiều dấu chấm hỏi trong đầu, bọn này đang âm mưu gì đây ? .

Thằng Kháng vừa hiến kế xong thằng Lập phá lên cười, nước mắt nó chợt trào nơi khoé mắt cũng bởi chuyện thằng Kháng bày vẽ cho tôi giống như chuyện tiếu lâm làm nó cười ngất ngưởng , khiến mọi người trong "sam" chăm chú hướng nhìn về chúng tôi . Riêng tôi thì đưa tay cốc vào đầu thằng Kháng một cái đau điếng kèm theo lời trách móc nó;

- Tao nói thiệt mà, vô đây mà mày còn giỡn được hả mậy, thôi khùng quá ông ơi .

Tôi còn co giò đạp thằng Kháng một cái nữa, sau này tôi ân hận với sự phản ứng quá trớn đối với nó .

Thằng Kháng nó bàn với tôi nếu sau này khi ra quân trường thụ huấn mà gặp phải cảnh thiếu nước sử dụng thì viết thư về kêu gia đình gửi lên cho cái thùng phuy loại 200 lít đục bỏ cái nắp trên rồi hứng nước mưa chứa vào đó thì coi như giải quyết được vấn đề thiếu nước , đúng là chuyện tiếu lâm không sai .

Ngoài trời bóng đêm dần bao phủ không gian, tôi thoảng nghe một vài tiếng kêu của lũ vạc bay đi ăn đêm, tiếng vo ve bên tai của lũ muỗi đói, cố dỗ giấc ngủ mà đôi mắt đứa nào cũng ráo hoảnh, ba đứa chúng tôi nằm im thin thít, mỗi đứa đang theo đuổi suy nghĩ riêng của mình, chợt thằng Lập nhìn vào mắt tôi nó hỏi :

- Bộ nhớ em Hồng phải không ?

Thằng Lập nó gãi trúng chổ ngứa của tôi, như sợ quê với nó tôi nói :

- Gì mà nhớ với nhung, có chăng đi nữa thì cũng hết khóa huấn luyện thì may ra nhung với nhớ mầy ơi .

Thằng Kháng lúc này nó mới lên tiếng :

- Học ra trường xong về đơn vị mới, mầy kêu bác năm nói với thím Hai cho mầy với con Hồng Châu về hiệp phố cho rồi, ông bà mình nói cưới vợ phải cưới liền tay đó nghe mậy .

Nghe thằng Kháng nói như vậy, trong lòng tôi ngờ ngợ nhớ lại câu nói của Hồng cái hôm hai đứa hẹn nhau để nói lời tạm biệt :

- Anh Phương cố gắng làm tròn bổn phận công dân đi, ở Hậu Phương thiếu gì em gái nhỏ chờ đợi, duyên kiếp đều có số phần hết anh đừng lo nhé .

Câu nói đùa của Hồng khiến tôi không vui lắm, tôi ái ngại vô cùng và tự hỏi không hiểu Hồng có thể chờ đợi mình trở về hay không ? Chiến trường bắt đầu sôi động trở lại, chiến sự ác liệt, tin tức dội về hàng ngày, có những chàng trai ra đi như tráng sĩ kinh kha , để rồi cũng có nhiều thiếu phụ Nam Sương chờ chồng trong mòn mỏi đợi chờ . Lần ra đi này tôi linh cảm chuyện tình yêu của mình nó có vẻ mang một màu sắc xam xám, đã vậy nghe thằng Kháng đốc thêm vào thì thật lòng mà nói trong lòng tôi như ngổn ngang trăm mối tơ vò .

Rồi thì ba tháng quân trường ở Dục mỹ cũng xong, ba tháng dầm mưa dãi nắng, thao trường mồ hôi đổ, cả ba đứa chúng tôi đều được tiểu đoàn trưởng của Trung tâm huấn luyện tuyên dương tinh thần học tập, đêm cuối ở quân trường lần đầu tiên trong đời 3 thằng nhóc sợ ma ngày nào cùng nhau nốc bia liên hoan một buổi ra trò, đánh dấu buổi họp mặt cuối cùng ở cái lò luyện thép này, nơi đã un đúc tinh thần và thể xác chúng tôi thêm phần mạnh mẽ .

Rời trung tâm huấn luyện Dục Mỹ, chúng tôi lênh đênh trên biển, chiếc dương vận Hạm 505 rẽ sóng đưa chúng tôi trở về căn cứ Long Bình nơi hậu cứ của đơn vị chúng tôi phục vụ sau này . Ròng rã hai ngày hai đêm trên biển, trong lòng ai cũng nôn nóng mong về đến đất liền, qua hai ngày trên biển chỉ thấy mây, nước và đường chân trời, thỉnh thoảng cũng gặp vài đàn Hải âu bay lượn tìm thức ăn giữa biển trời bao la rộng lớn, lúc ấy thật sự chúng tôi mới cảm phục những người lính Hải quân, bởi họ cô đơn quanh năm với biển khơi mà họ còn chịu đựng được, với chúng tôi hai ngày trên biển như một cực hình vì không thể thích nghi với cái mênh mông của biển trời .

Đến hậu cứ Long Bình được một tuần, sáng nọ lệnh tập họp được ban ra, xe GMC đưa chúng tôi ra sân bay , từng chiếc trực thăng Chinook đưa chúng tôi vào bay vào vùng lửa đạn, mặt trận An Lộc Bình Long hiện ra bên ô kính tròn của chiếc phi cơ, thấp thoáng trong mây chúng tôi thấy rõ mồn một nơi xa xa những cụm khói bốc lên cao do những phi tuần ném bom nơi vùng hỏa tuyến . Hạ dần độ cao, Phi công rà sát chiếc Chinook trên đầu những ngọn cây cao su bên phi đạo, khiến cây lá ngả nghiêng xào xạc do sức mạnh của cánh quạt gây ra, khi phi cơ đáp xuống gần sát mặt đất, tiếng hô vang của nhân viên phi hành người Mỹ :

- Go out .. Go out ....

Chúng tôi vụt lao ra khỏi chiếc chinook rồi chạy vào vạt rừng ven đường, cũng là lúc tiếng đạn pháo từ đâu nổ tới tấp, đất bị đào xới tung lên tạo những hố sâu hoắm, mùi thuốc pháo khét lẹt, không khí như mang nặng âm vang tiếng của lão Thần chết đang réo gọi hồn ai .

Tiếng phản pháo vang lên mội hồi lâu rồi cũng chấm dứt , trả lại sự yên tỉnh tịch mịch vốn có của núi rừng,

- Đại đội tập họp . Ngang dọc so hàng , 4 hàng dọc, đằng trước thẳng .

Tiếng khẩu lệnh của ông Thượng sĩ người có trách nhiệm đưa chúng tôi trình diện đơn vị mới đang hành quân nơi chiến trường .

Hàng ngũ xếp ngay ngắn, tôi tranh thủ liếc dọc liếc ngang quan sát nơi mình đặt chân trên chiến trường là nơi đâu, lòng tôi chợt bàng hoàng, trước mắt tôi có tấm bảng viết vội trên tấm ván ép mỏng manh hàng chữ Phi đạo Sa Cam , phía bên dưới là một nắm mộ đất dường như mới đắp gần đây thôi, trên cây thập tự giá bằng hai thanh gỗ thông của thùng đựng đầu đạn cối 81 ly ghép lại , ai đó viết lên hàng chữ thay cho mộ bia một dòng sơn đỏ như máu của người dưới mộ kia đã tuôn ra vì mảnh đất quê hương yêu dấu .

Nơi tạm yên nghỉ : Chuẩn úy .....đại đội ...tiểu đoàn .... Anh dũng đền nợ nước ngày ......tháng ...năm..

Được chào đón bằng những tràng đạn pháo, được thấy những anh hùng ngã xuống nơi tuyến đầu cũng không làm chúng tôi sợ sệt chùng bước, thầm khấn vái vong hồn người sĩ quan bạc mệnh kia, ông hiển linh hãy dìu chúng tôi bước qua cho đến ngày tròn cuộc chiến . Như có một phép mầu, như thấu hiểu sự tôn kính với ông nên có thể ông ta đã che chở cho tôi thoát hiểm nhiều lần trong gang tấc .

Chúng tôi về đến bộ chỉ huy tại thị trấn An lộc điêu tàn đổ nát, được tập hợp lại, sau một hồi huấn thị, lựa chọn, phân phối cho các đơn vị tác chiến trực thuộc, tôi là người duy nhất được chỉ huy phó đơn vị chọn ở lại bộ chỉ huy làm công việc chuyên môn, còn những anh em cùng khóa học được đưa về các tiểu đoàn tác chiến .

Tôi chia tay thằng Lập, thằng Kháng, vậy là chúng tôi mỗi đứa một nơi, trong mắt đứa nào cũng đượm buồn lưu luyến, tôi vỗ vai hai đứa nó và cầm lấy bàn tay , ba chúng tôi xiết chặt tay nhau ngầm hẹn ngày nào đó cùng nhau về lại Sài Gòn khi đất mẹ bình yên ..

Tôi cố chọc cười 2 đứa bạn thời niên thiếu :

- Tụi mình lại bắt đầu cuộc chơi năm mười nữa rồi đó, hai thằng bây đi trốn, và tao sẽ đi tìm ...

Kỷ niệm xưa chợt hiện ra trong tâm trí, không hẹn nhau mà tự nhiên ba đứa nước mắt chạy thành dòng .

Đưa tay quẹt nước mắt thằng Kháng đáp lời tôi :

- Tụi tao đi đây, nhớ giữ sức khỏe nha, thư từ nhà có gì nhớ cho tụi tao biết với .

Nước mắt lại tuôn ra, ông Thượng sĩ già đứng gần bên thấy hết sự việc, hình như ái ngại điều gì ông ta nói :

- Ba đứa bây ở chung xóm với nhau hả, thôi đừng buồn, đóng quân cũng gần đây thôi, muốn gặp nhau dễ ợt hà, thôi đi đi kẻo anh em chờ .

Chiến trường vào mùa khô, mùa cao điểm của chiến trận, lao vào công việc hàng ngày, đối diện với nhiều cam go, có lúc tôi quên bẵng đi hai thằng bạn kia, quên cả cái gia đình ở Sài gòn, quên cả cái tình yêu bé nhỏ của Hồng, đứa con gái nết na thùy mị đùa vui trong quảng đời thơ ấu và tình yêu đến với hai đứa tôi tự hồi nào không hay .

Ba tháng sau, thư đi tin lại cho gia đình, cho người yêu . Lần này nhận lá thư của Hồng, không phải cái bì thư màu xanh hy vọng như những cánh thư trước, mà là bì thư màu trắng trinh nguyên, cũng là màu tang tóc, trong thư Hồng kể rằng :

- Anh Phương thương mến ! Viết thư này cho anh, tuy tay thì cầm viết nhưng lòng thì không muốn, nhưng cuối cùng cũng phải viết cho anh, mẹ em ( thím hai ) mất tròn một tháng, ba em thì đơn vị báo tin mất tích, đất trời sụp đổ dưới chân em, gia đình lâm cánh túng bấn, may nhờ một người ân nhân đứng ra gánh vác mọi chuyện, và anh ta cầu hôn em thật chân tình sau lần lo tang chế cho mẹ, vì nghĩa em đành phụ anh, mong anh đừng buồn, hậu phương còn rất nhiều em gái khác . Anh nhớ giữ sức khỏe . Tạm biệt . Ngàn lần yêu anh, Hồng .

Đọc xong lá thư tôi không trách Hồng phụ bạc, nhưng tự trách mình vô dụng để vuột một mối tình trong trắng thơ ngay . Đổ vỡ trong cuộc tình với Hồng, thế là tôi gặp phải sự cô đơn như những chiến sĩ Hải quân dạo ấy, nhưng không phải cô đơn giữa biển khơi, mà tôi cô đơn giữa biển đời mênh mông vô định, sau vụ này tôi thẩn thờ cả năm thì vết thương lòng mới tạm liền da .

Buổi sáng nọ, đang loay hoay công việc, tôi nghe loáng thoáng phòng bên cạnh có tiếng sếp đang ra lệnh :

- Chiều nay xin trực thăng tản thương, chở mấy anh em thương binh ở ban quân y về Tổng y viện Cộng hòa, nhân tiện đem xác thằng Nguyễn công Lập, và thằng Dương văn Kháng về nghĩa trang quân đội luôn .

Tôi bỏ ngay công việc chạy nhanh qua Ban 3 hành quân, hỏi han một lúc thì đúng là hai thằng bạn thân thiết nhất trong đời tôi đã ra đi vĩnh viễn, thằng Lập chết trước thằng Kháng nửa ngày do bị sốt ác tính quật ngã nó . Còn thằng Kháng thì dẫm phải mìn khi đi hành quân, thân xác nó vương vãi khắp nơi, đồng đội nó gom lại được một ít thịt xương gói lại trong chiếc Poncho từng che chở nó trong những cơn mưa rừng lạnh lẽo .

Chiếc trực thăng sơn màu tang trắng, trước mũi, bên hông đều mang chữ thập đỏ đáp xuống, nó mang những thương binh và mang theo hình hài của hai đứa bạn tôi, cho đến khi chiếc trực thăng có danh hiệu " Nhân ái 95 "" chỉ còn một cái chấm nhỏ trên bầu trời vàng hoe nhuộm nắng cũng là lúc tôi thốt lên trong vô thức :

- Xí thằng lập, xí thằng Kháng . Một . Hai .ba .

Tôi vỗ tay ba cái vào cái thùng Cô nét nơi lưu giữ xác của hai đứa bạn như vỗ vào vách tường của trò chơi cút bắt những ngày xưa ./.

Hai Hùng SG


Mục Lục


6. Cuối Cùng Cho Một Mùa Xuân


Phan Thái Yên


Như con ngựa thồ già cam phận, chiếc xe đò cũ kỷ chạy bằng than mệt nhoài lăn từng vòng bánh cuối cùng qua dốc cầu Xa Lộ. Gió từ sông Sài Gòn thổi lên mát rượi. Giòng sông quen thuộc đánh thức tôi dậy trong nỗi hân hoan choáng ngợp. Tôi đang thực sự trở về sau mấy năm dài chém tre đẵn gổ, lao động cải tạo trên ngàn.
Đường vào bến xe Miền Đông loang lổ những vũng nước mưa đọng nhầy nhụa sình rác. Đám hành khách tranh nhau xuống xe để kịp nhận quang gánh hàng hóa bị quăng từ nóc xe xuống không nương tay. Người lơ xe, mặt mũi đen bóng vì khói than, hả miệng cười trừ khi bị khách đi xe cự nự mắng nhiếc. Ngoại trừ tôi và một người nữa là tù cải tạo được ra trại, hầu hết khành khách trên xe là đàn bà. Họ là những người đi buôn lén, đi thăm thân nhân ở các trại cải tạo về hoặc từ những khu kinh tế mới trốn về Sài Gòn thăm nhà. Người bạn cựu tù bắt tay chào từ giã rồi xách ba lô rảo bước về phía ngã tư Hàng Xanh.
Tôi nhìn quanh khu bến xe, ngờ vực đôi mắt mình. Xa Cảng Miền Đông sầm uất với hàng trăm chuyến xe đo, màu sắc tươi sáng, đến đi nhộn nhịp ngày nào giờ đây cũng xơ xác như bầy xe cũ kỷ đang nằm bến chờ khách. Người qua lại tất tả trong bến xe. Họ mua bán vội vàng, tiếng cãi vã chen lẫn trong lời chào bán rao trả ồn ào. Người chạy xe thồ trờ tới hỏi tôi muốn về đâu. Phân vân vì trong túi chẳng có bao nhiêu tiền, tôi lên tiếng từ chối.
- Ông thầy đưa cho em bao nhiêu cũng được.
Cách xưng hô quen thuộc của những ngày lính cũ khiến tôi không khỏi tò mò nhìn anh ta.
Người chạy xe thồ vuốt ngược mái tóc ướt nhẹp mồ hôi.
- Trước bảy lăm em ở Sư Đoàn 18, Long Khánh. Thỉnh thoảng em gặp Sĩ quan cải tạo mới được thả như ông thầy. Cùng là Ngụy cã!
- Năm bảy sáu tôi ở Long Khánh một thời gian, sau đó thì bị chuyển lên Phước Long cho tới giờ.
- Vậy là ông thầy may mắn không bị thương tật vì vụ kho đạn nổ năm đó. Trời đất, vừa chết vừa bị thương cả trăm người.
Tôi đùa.
- Mạng tôi cao lắm, tướng cũng tốt nữa. Chỉ có cái số là bị ở tù.
Người lính Ngụy cười buồn, khuôn mặt rám nắng khắc khổ chuyện áo cơm.
- Ông Đại Đội Trưởng của em chết trong vụ nổ đó. Chết bỏ lại bà vợ trẻ với đứa con dại. Thời buổi gì đâu, tưởng hòa bình thì sướng ai ngờ còn cực gấp trăm gấp ngàn lần hồi còn chiến tranh.
Tôi vỗ vai anh ta.
- Thôi để chuyện thời thế, thế thời cho người khác lo. Nhà tôi ở Hòa Hưng nhưng giờ này hai đứa em chắc đi học chưa về, anh làm ơn cho tôi về trung tâm Sài Gòn đi.

Mãi nghe anh lính Ngụy chạy xe ôm kể chuyện áo cơm xe chạy qua khỏi Bưu Điện, nhà thờ Đức Bà lúc nào không hay. Anh ta dừng xe ở bùng binh trước Tòa Đô Chính cũ. Dúi lại tay tôi một phần tiền xe, người lính nói chỉ lấy tiền xăng thôi rồi rồ máy chạy về phía chợ Bến Thành. Đường Lê Lợi muôn màu mấy năm trước chỉ còn lại hai màu đỏ vàng chói chang và dòng người xuôi ngược lam lũ đạp xe. Màu áo quần lao động lẫn vào nền trời đang chuyễn mưa làm dòng người trở nên xa vắng như nỗi cô đơn bất động của một bức tranh tĩnh vật. Công viên nhỏ trước Quốc Hội cũ, nay là Nhà Hát Thành Phố, thiếu bức tượng lính làm mấy băng ghế đá cũng buồn bã nhớ người. Tôi bước dọc theo vỉa hè đông đúc người buôn gánh bán bưng. Những người bán chợ trời mắt lấm lét canh nhìn tên công an áo vàng đang bận rộn hò hét xua đuổi đám người sắp hàng trước một cửa hàng mậu dịch quốc doanh. Quán cà phê cũ ở góc phố vẫn còn nhưng tên quán đã mất, cũng như khu chợ sách phía bên kia đường. Từ trong quán nhìn sang, dáng gầy còm của người thợ đang ngồi lúi húi vá ruột xe hằn lên bức tường loang lổ vôi vàng xiêu vẹo mấy khẩu hiệu đề cao lao động.
Sau bảy lăm cha mẹ tôi dọn về Kontum để tránh đi kinh tế mới. Nhà Sài Gòn chỉ còn hai đứa em sinh viên ở để giữ hộ khẩu. Khu vườn rẫy cà phê cây ăn trái, thú tiêu khiển của cha tôi những năm trước, bây giờ là nguồn sống cho cả nhà. Thy và bé Đông Xưa gần đây cũng đã rời Đà Nẵng về sống với Nội trên thị trấn cao nguyên heo hút này. Đó cũng là địa chỉ nơi đến đã ghi rõ trong giấy ra trại. Tôi có được bảy ngày để về trình diện chính quyền địa phương, tiếp tục lao động dưới sự quản chế của công an trong vòng hai năm tới. Ra khỏi nhà tù nhỏ chỉ để rồi phải bước vào một nhà tù khác lớn hơn, thế thôi. Dù sao lần này tôi sẽ được gần gũi với người thân. Người vợ hiền, đứa con thơ, mà tôi đã đếm từng ngày mơ từng đêm để được về lại bên đời nhau. Không, tôi không cần đến bảy ngày, tôi chỉ cần buổi chiều nay thôi. Tôi chỉ còn có chiều nay thôi để ngồi lại một nơi quen thuộc trong lòng thành phố cũ. Ngồi làm thân lại với mình, rứt bỏ đi tháng năm lạ mặt nghiệt ngã vừa qua. Ngày mai khi tôi trở về, hạnh phúc đoàn viên sẽ là điều duy nhất để nói cho nhau. Ngày mai tôi trở về ăm ắp trong hồn kỷ niệm những ngày xuân vui trước bảy lăm. Ngày hai đứa thỏa thuê tắm mát trên đầu ngọn suối trăm năm và Thy thẹn thùa ấp úng chuyện cưu mang. Ngày mai tôi trở về mừng vui đón bồng bé Đông Xưa đã lớn khôn biết hát, biết cười.

Sau ngày bị thương ở Đồng Tháp Mười và mấy lần hai mươi chín ngày tái khám, tôi xin chuyễn về Giang Đoàn Tuần Thám ở Cửa Đại, Hội An để được gần Thy. Thời gian qua thật mau. Hai đứa mới làm đám cưới vào dịp Giáng Sinh bây giờ đã ra Tết. Trừ những ngày dẫn tàu đi tuần, tôi hầu như ngày nào cũng về nhà. Những ngày đầu năm bảy lăm ở Đà Nẵng trời vẫn còn se lạnh, nhất là vào buổi sáng. Tôi thường lười biếng quấn chăn nằm lơ mơ nghe tiếng Thy lục đục ở nhà dưới pha cà phê, sửa soạn đi dạy. Bước xuống gác, thấy Thy vẫn đang trang điểm, tôi đùa.
- Đi dạy học chớ phải đi chơi với bồ đâu mà diện kỹ qúa vậy?
Thy háy tôi.
- Phải sửa soạn cho kỹ chớ không người ta biết hồi hôm thức khuya sao.
Tôi trây trúa.
- Điệu này anh phải về nhà hằng ngày để thêm tay thêm chân cho kịp mới được.
Bến xe Chợ Cồn lúc nào cũng tấp nập. Thy lên xe lam. Tôi theo xe đò về Hội An cho kịp chuyến tàu chợ sáng của Duyên Đoàn để về căn cứ.
Có lần Thy nói.
- Ngồi trên xe lam vừa thấy người ta quay lưng đi là đã nhớ dễ sợ.
Ước gì cứ mãi là những ngày tháng Giêng ngọt ngào năm đó.

Hiệp định Paris ký kết đã vừa hai năm nhưng chiến trường khắp cùng đất nước vẫn ngày càng sôi bỏng. Thời gian đủ cho những đơn vị chiến đấu cuối cùng của Mỹ an toàn rút ra khỏi Việt Nam. Người lính miền Nam vẫn can trường chiến đấu trong cô đơn và thiếu thốn. Hàng ngày làm tròn nhiệm vụ mình, tôi vẫn lạc quan trong suy nghĩ đơn giãn rằng thời gian khó khăn này cũng sẽ qua như Mậu Thân, mùa hè bảy hai, An Lộc... Tôi vẫn mỗi chuyến hai ngày dẫn tàu đi tuần vùng sông Thu Bồn, Đế Võng, Ô Lâu và thấp thỏm chờ tới phiên nghỉ bến để bay về Đà Nẵng với Thy.
Tin tức chiến trường từ Ban Mê Thuột, Quãng Trị, Thừa Thiên ngày càng tệ. Gặp Thu, bạn cùng lớp thời Phan châu Trinh làm Phó Quận Hành Chánh ở Quế Sơn, về họp ở Hội An. Ngồi chuyện trò ở quán Phương, Thu lắc đầu thấp giọng khi tôi hỏi về tình hình chiến sự trên vùng quận lỵ miền núi đó.
- Đừng nói với ai hết, tao về họp lần này để bàn tính kế họach di tản xuống dưới này. Tao gặp thằng Nghĩa Võ Bị, tiểu đoàn của nó bỏ tiền đồn rút về gần Quế Sơn. Mầy biết nó, đụng cãnh này hắn cứ như con thú bị thương.

Tin tức gia đình từ Kontum nhắn xuống giúp tôi yên tâm được một phần. Rút kinh nghiệm lần di tản mùa hè năm bảy hai theo tỉnh lộ 7 nguy hiểm cực khổ, Ba Me tôi đã sửa soạn chuyễn gia đình vào Sài Gòn bằng đưòng hàng không. Nhà gia đình bên vợ ở Đà Nẵng thì tấp nập bà con từ Huế vào. Người Huế đã quá quen với Mậu Thân, Đại Lộ Kinh Hoàng, nên ai có bà con ở phía trong đèo Hải Vân cũng tìm cách xuôi Nam. Từng chuyến xe đò Phi Long, Tiến Lực, An Lợi chật ních những khuôn mặt hốt hoảng càng tạo thêm khẩn trương cho tình hình chiến sự đang chẳng mấy khích lệ. Người dân Đà Nẵng nhìn về dáng núi vời vợi phía đèo Hải Vân cầu mong sự bảo vệ cuối cùng.
An ninh trong vùng trách nhiệm của Giang Đoàn cũng không khả quan gì hơn so với tình hình chung. Sĩ quan chúng tôi lo lắng nhận lệnh gia tăng tuần tiểu, bảo vệ tuyến đường sông từ Hội An ra Cửa Đại. Duyên Đoàn bạn cũng tăng cường ghe tuần từ vùng cửa biển ra đến Cù Lao Chàm. Cái chết của Chánh và người lính dưới tàu khiến tôi nhớ lại những ngày đen tối ở Đồng Tháp Mười. Sĩ Quan Giang Đoàn, đa số ở miền Trung, chưa quen với cãnh tàu chìm chết chóc nên ai cũng có vẽ nao núng.
Nơi tiếp giáp sông Thu Bồn và Đế Võng trước khi đổ ra Cửa Đại là một đầm sông rộng ngăn cách căn cứ Giang Đoàn với những độn cát dài nằm dọc theo bờ biển. Làng Xuyên Phước, Xuyên Thọ ở bên đó với những xóm chài rải rác ẩn mình dưới bóng dừa. Xa hơn nữa về phía Nam là vùng Chợ Được, Hà Lam, Thăng Bình. Du kích từ những làng này thường tìm cách qua sông, về hoạt động ở khu làng cuối sông Đế Võng và từ đó theo đường bộ về quấy phá thị xã Hội An. Xóm chài rợp bóng dừa xanh che mát cho bầy con gái bận bịu vá lưới câu giăng đầy trên bãi. Thuyền đánh cá đậu san sát trên bến những sớm mai từ biển về cho kịp phiên chợ. Từ ngoài sông nhìn vào, xóm chài Thuận Tình đẹp như bức tranh vẽ. Nhưng khi đêm về, trong bóng tối của rừng dừa lả ngọn, xóm chài trở thành nơi bất trắc rình rập đầy đe dọa. Nhận được tin từ phòng hành quân cho hay tàu Chánh bị mìn, tôi bỏ điểm kích chạy về thì đã quá muộn. Một trong ba giang đỉnh Chánh cho thả neo trong vùng sông không xa xóm chài đã bị đặc công thủy đánh chìm.
Xác Chánh quàng tại bệnh viện Hội An chờ đem về quê ở tận Tây Ninh. Người lính bị thương nặng thì được chuyễn ra Quân Y Viện Duy Tân. Sĩ quan chúng tôi thay nhau gác quan tài theo quân cách. Trong đêm tàn, ánh nến trắng lay lắt soi dáng cô gái Quãng Nam đứng cúi đầu thổn thức bên chiếc quan tài phủ quốc kỳ. Nhìn giọt nước mắt lặng lẽ lăn dài trên gò má xuân thì, tôi bàng hoàng cắn môi để khỏi nghe chính mình bật ra tiếng khóc. Đưa xác Chánh ra phi trường Đà Nẵng xong, tôi đại diện đơn vị để lo mai táng người lính từ trần vì vết thương quá nặng. Chiếc GMC của Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải chở quan tài và thân nhân người lính tử trận lặng lẽ chạy về phía Đò Xu. Mưa lất phất bay làm khu nghĩa trang nhỏ thêm buồn. Tiếng kèn truy điệu khản đặc tắc lịm. Tiếng súng chiêu hồn của tiểu đội dàn chào danh dự nổ rời rạc. Cây mai già sót mấy nụ bông vàng nở muộn đứng lẻ loi cuối nghĩa trang. Cánh hoa rưng rưng buồn như bà mẹ đang ôm mặt khóc.

Tình hình mặt trận Huế đến lúc kiệt quệ. Những trái mìn chống chiến xa dày đặc trên cầu Tràng Tiền như một thú nhận chua xót. Ninh đưa người vợ chưa cưới ở Huế vào ở tạm trong nhà. Thy vẫn đến trường nhưng chẳng còn lòng dạ nào để dạy học trò. Hai đứa thu dọn đồ đạc trong nhà, sắp xếp hành trang sẵn sàng cho điều cả hai đều sợ không dám nghĩ đến. Di tản.
Tuần lễ cuối tháng ba, vì nhiệm vụ tuần tiểu, tôi và Ninh đang chần chừ chưa kịp đưa gia đình vào căn cứ thì lộ trình Đà Nẵng, Hội An bị cắt. Đường biển là hi vọng cuối cùng nên tôi đành cố gắng trấn tỉnh làm việc, chờ lệnh di tản.
Sự sụp đổ đến quá nhanh không ai ngờ. Một số lính từ các tiền đồn chạy về Hội An bắt đầu đi quấy nhiễu tiệm quán trong thị xã và dự tính chiếm bến tàu để tìm phương tiện ra Cửa Đại. Thành phần bất hảo thừa thời cơ cướp bóc, hôi của, làm tình hình càng rối loạn thêm. Lệnh thiết quân luật được ban hành. Ghe Duyên Đoàn vào Hội An hộ tống ông Đại Tá Tiểu Khu Trưởng và bộ chỉ huy ra Cửa Đại. Một số gia đình có liên hệ với sĩ quan và lính của hai đơn vị Hải Quân cũng được đưa ra tạm trú trong căn cứ. Tôi càng lo lắng hơn vì không liên lạc được với gia đình. Chỉ huy trưởng Giang Đoàn trấn an tôi.
- Anh cứ yên tâm. Gia đình tôi đang ở khu gia binh Sơn Trà. Khi Giang Đoàn di tản ra cù lao Chàm, tôi sẽ để anh dẫn tàu về bải biển Nam Thọ, đến khu gia binh tìm gia đình tôi, sau đó lấy xe đơn vị về Đà Nẵng chở vợ qua.
Đoàn giang đĩnh theo đội hình hàng dọc chạy ra cửa biển, bỏ lại sau lưng căn cứ đang bốc cháy. Cầu tàu nằm buồn bã trong nắng chiều. Hàng dương trong doanh trại cúi đầu im lìm lời ly biệt.
Có lẽ cù lao Chàm chưa bao giờ chứng kiến cảnh người đến đông đúc như mấy ngày cuối tháng Ba năm bảy lăm. Hàng ngàn người từ Hội An, Đà Nẵng theo tàu Hải Quân, tàu đánh cá, ra đây để tìm cách lên tàu lớn thoát thân. Người thành phố không quen vơi cảnh màn trời chiếu đất, hốt hoảng mưu sinh. Đêm trên hòn đảo nhỏ, hiu hắt ánh đèn dầu từ nhữmg hàng quán tạm bợ, sao như dài vô tận. Không kịp chờ sáng, tôi cùng Ninh lựa hai giang đỉnh và máy truyền tin tốt để phóng về Đà Nẵng. Ông Chỉ huy Trưởng giao chìa khóa chiếc xe jeep, dặn dò:
- Hai anh về khu gia binh, tìm gặp gia đình tôi thì chở ra bãi, liên lạc tàu vào đón. Một ghe Duyên Đoàn sẽ đi theo hai anh. Nhớ liên lạc máy thường xuyên. Cẩn thận khi về đến Đà Nẵng.
Ngày cuối tháng Ba. Chúng tôi về đến bãi biển Nam Thọ lúc trời vừa hừng sáng. Một chiến hạm đang lảng vảng phía ngoài, cách bãi không quá hai hải lý. Thiếu tá Hạm trưởng mừng rỡ nhận ra giọng nói tôi qua máy truyền tin. Không lâu trước đây, hai anh em dân Phan châu Trinh Đà Nẵng đã có lần cùng ngất ngưởng say trên vùng cuối biển Hà Tiên. Anh Nguyễn hoàng Be đã lúy túy phạt rượu thằng em vì tội ?dám? là bạn học cùng lớp với ?phu nhân của niên trưởng?. Anh nhờ tôi khi về Đà Nẵng ghé nhà ở gần cà phê Thạch Thảo tìm Hạnh và gia đình. Giọng Cao bồi Be oang oang trong máy truyền tin.
- Moa sẽ trực ở tần số Giang Đoàn, toa nhớ giúp và gọi cho biết tình hình càng sớm càng tốt.
Khu gia binh Giang Đoàn vắng lặng không một bóng người. Chúng tôi mừng rỡ khi thấy chiếc xe jeep ăng ten cần câu nằm ngoan ngoãn trước sân. Ninh lái xe vào Bộ Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải. Vài người lính, có lẽ quyết định ở lại, cho biết Bộ Tư Lệnh đã di tản đêm qua. Căn Cứ Yểm Trợ cũng vắng lặng không kém. Ông thượng sĩ nhìn cầu tàu trống trải, phân trần:
- Bà con ở khu gia binh ai muốn đi thì đã lên tàu tối qua. Tình hình này đi đâu cũng vậy thôi. Gia đình tôi đông đảo, ở lại đùm bọc nhau, tới đâu thì tới.
Tôi bắt tay ông thượng sĩ già chúc may mắn. Đôi mắt người lính u uẩn nhìn về phía Bộ Tư Lệnh bên kia bờ vịnh. Ngôi nhà trắng chênh vênh trên ghềnh đá cô đơn như sự lựa chọn cuối cùng. Hơn nửa đời người tận tụy cho đất nước cho binh nghiệp, sự lựa chọn sao chỉ là cay chát trong mắt trên môi.
Tôi gọi ra tàu bảo người thuyền trưỡng liên lạc với Giang Đoàn báo cáo về việc gia đình của ông Chỉ Huy Trưởng đã lên tàu lớn an toàn. Tôi nhắc nhở ba chiếc tàu canh gác cẩn thận và không được vào sát bãi.
Con đường mấy cây số từ Sơn Trà về đến cầu Trịnh minh Thế đông nghẹt dân di tản từ Đà Nẵng chạy qua. Đoàn công voa hỗn độn dân lính, xe gắn máy, xe nhỏ, xe lớn, xe GMC nhà binh, xe bọc sắt, thiết giáp M113, nhích từng vòng bánh. Những khuôn mặt bơ phờ hốt hoảng thiếu ngủ đã nói lên sự sụp đổ nhanh chóng của chiến cuộc. Tôi buồn bã nghĩ tới bốn chử Di Tản Chiến Lược. Chiếc xe jeep chạy ngược chiều đoàn công voa nên Ninh luồn lách chạy khá nhanh. Ninh đạp ga:
- Đ. mạ, tình hình này mà ba bốn giờ chiều chưa về lại bãi Nam Thọ được là chết cả đám.
Thành phố Đà Nẵng, giữa buổi sáng mùa xuân se lạnh, bị nung chín trong kinh hoàng tột độ. Từng đoàn người xe cộ gồng gánh tất tả chạy về phía bờ sông để tìm đường ra biển. Họ không biết đoàn tàu lớn đã bỏ ra khơi đêm qua. Dưới sông hàng trăm, ngàn người chen chúc vô vọng trên những chiếc xà lan cũ kỷ không có tàu kéo. Phố xá đóng cửa hoang tàn. Đám người bất lương lợi dụng tình hình, cướp phá hôi của. Họ hối hã trên vai, sau xe gắn máy, xe ba gác những bao gạo, thực phẩm, áo quần, vải vóc, máy hát, truyền hình.
Thy mừng quýnh khi thấy tôi bước vào nhà.
- Em đang lo đường Hội An bị cắt anh không về được.
Tôi vắn tắt giải thích tình hình rồi dục Thy chất hành lý lên xe. Ninh thì dỗ dành Hân vẫn ngồi còn ngồi khóc đòi về lại Huế. Ngôi nhà hai vợ chồng thuê ở chỉ cách nhà gia đình Thy con hẻm ngắn. Lúc hai đứa đến chào từ giã, cã nhà đang đứng trước hiên tần ngần lo lắng. Thy rưng rưng nước mắt chào Ba Mạ và bầy em. Cô nào mắt cũng nhoà lệ. Tôi cố gắng trấn an mọi người.
- Tụi con đi vài tháng, thế nào rồi cũng về lại.
Mạ ráng giữ cho nước mắt khỏi trào, nhắn nhủ con gái.
- Cái thai còn non, con phải đi đứng giữ gìn cho cẩn thận.
Thy òa khóc lúc tôi dìu nàng lên xe. Ra khỏi hẻm, Ninh nhấn ga phóng nhanh về phía Cầu Vồng. Con lộ đất đỏ từ đường Lê đình Dương vào quán cà phê Thạch Thảo vắng tanh. Giàn bông giấy đỏ rực đong đưa bóng nắng trưa. Cửa quán đóng. Trong vườn, bàn ghế ngổn ngang. Tôi đi vào khu vườn ngôi nhà cạnh quán. Cửa đóng then cài, không ai trả lời tiếng tôi gọi cửa. Có lẽ gia đình Hạnh đã di tản.
Tôi ra xe, mở máy liên lạc về tàu. Có tiếng trả lời nhưng vì quá xa nên giọng nói chìm lẫn trong tiếng rè rè của máy truyền tin. Tôi hỏi người nghe máy nếu nghe tôi rõ thì bấm máy ba lần thay vì trả lời. Nhận được tín hiệu, tôi yên tâm báo cáo về Giang đoàn chúng tôi đang trên đường về lại bãi biển Nam Thọ và báo cho anh Be biết gia đình Hạnh đã di tản.
Xe chạy đến ngã ba Đò Xu, Ninh tò mò quẹo phải về phía Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I. Mấy tiếng Di Tản Chiến Lược một lần nữa gây cho tôi nỗi buồn ngao ngán. Vọng gác vắng lính canh. Quốc kỳ, quân kỳ thiếu gió buông xuôi rủ dọc theo cột cờ. Xe của Ông Tướng bóng lộn với bảng số ba sao nằm chắn ngay lối ra cổng Quân Đoàn. Ninh bởn cợt hỏi có ai muốn đổi xe không? Câu nói đùa rớt vào im lặng.
Xe vừa qua khỏi cầu Trịnh minh Thế thì phải chạy chậm hẳn lại. Chúng tôi phải nhập vào đuôi của đoàn công voa dài vô tận nhìn thấy sáng nay. Thỉnh thoảng có người mất hết kiên nhẫn, tấp vào lề đường, bỏ xe đi bộ cho nhanh. Từ ngã ba Non Nước đến ngã ba An Hải xe chạy mất gần hai giờ. Nhìn đống hồ xăng chỉ còn một nửa và đã gần hai giờ chiều, tôi bảo Ninh quẹo xe đi về phía bãi biển Mỹ Khê.
- Từ đây tới bãi Mỹ Khê chỉ hơn một cây số. Ra tới đó rồi chỉ việc chạy dọc theo bãi biển là tới Nam Thọ.
Ninh đồng ý. Đoạn đường này ít xe hơn nhưng rất nhiều thiết giáp M113. Lúc chạy ngang kho gạo An Hải, đạn pháo kích vừa rớt vào khu vực đó chỉ vài phút trước. Xác người chết nằm dọc theo vệ đường. Người bị thương sống sót thì máu me đầy mặt, vật vã kêu khóc. Chẵng ai cứu được ai.
Ra tới bãi biển, Ninh dừng lại tắt máy xe. Nhìn khuôn mặt lo âu của Thy, tôi cầm tay nàng chỉ về phía núi Sơn Trà, trấn an.
- Tàu của Giang Đoàn đang chờ phía đó. Cách đây chỉ vài cây số thôi. Em yên tâm, chỉ khoảng một giờ nữa thôi là mình sẽ lên tàu.
Ngoài khơi, cách bờ chừng hai hải lý, một Dương Vận Hạm và một Hải Vận Hạm đang thả neo. Đoàn thiết vận xa M113 nối đuôi nhau chạy càn xuống biển lội về phía tàu Hải Quân. Lính lố nhố trên xe quăng nón sắt, súng đạn, và tất cả những gì gở quăng được cho nhẹ. Loại thiết vận xa lội nước này được thiết kế chỉ để lội qua những sông rạch nhỏ. Nhưng ở giây phút cùng quẫn này có ai còn thì giờ để e ngại lo toan. Mục tiêu là bóng tàu ngoài kia. Tôi nghĩ đến hàng ngàn người chen chúc trên những xà lan ở sông Hàn sáng nay. Ai cũng nuôi chút hy vọng là tàu kéo sẽ đến đưa họ ra biển, lên tàu lớn, chạy trốn khỏi tai ương đang đến. Tôi nghĩ đến chuyến hải hành sắp đến của đoàn giang đỉnh chỉ quen chạy sông rạch. Thôi đừng! Giờ phút này nghĩ ngợi là điều không cần thiết. Hãy nhìn những chiếc thiết vận xa đang lặn hụp ngoài kia và đừng nghĩ ngợi gì.
Tôi mở máy liên lạc ra giang đĩnh. Tiếng người thuyền trưởng mừng rỡ.
- Trời đất, hồi trưa tới giờ ông thầy ở đâu?
Tôi vắn tắt kể chuyện kẹt xe rồi nhắc nhở anh ta.
- Dứt khoát không được chạy vào gần bãi. Khoảng nửa giờ nữa khi đến bãi tôi sẽ liên lạc rồi tùy tình hình lúc đó mà tính. Nhớ dùng ống dòm để nhận diện ra chiếc xe jeep. Tôi sẽ cột lên ăng ten cái khăn màu vàng.
Tôi hỏi Thy tìm cho tôi tấm khăn vàng. Đang lúi húi cột khăn lên ăng ten, tôi nghe Thy reo lên mừng rỡ.
- May quá, đây rồi! Hồi sáng tới chừ ráng nhớ hoài mà không biết để mô. Cả trăm ngàn chớ bộ ít mô.
Lục tìm chiếc khăn, Thy tình cờ kiếm ra được con heo đất của nàng. Nhìn nụ cười đầu tiên trong ngày của Thy, tôi cảm thấy lòng nhẹ đi được một phần.
Ninh lái xe dọc theo bờ biển về phía Nam Thọ, luồn lách qua những ghe xuồng đánh cá nằm phơi mình trên cát. Trên bãi một đám đông, dân lính lẫn lộn, đang dõi mắt ra biển nhìn ngóng đợi chờ.
Dáng chiếc Yabota quen thuộc của Duyên Đoàn hiện rõ dần trong tầm mắt. Hai chiếc giang đỉnh nhỏ nhoi đang thả trôi, nhấp nhô trên sóng. Người thuyền trưởng chiếc ghe Duyên Đoàn gọi cho biết đã thấy chiếc xe jeep, giọng lo lắng:
- Ông thầy tính sao đây? Đám đông trên bãi hiện giờ khoảng ba bốn trăm người. Ghe vào gần là họ nhào ra liền.
Tôi hội ý với Ninh, trã lời.
- Xe hiện giờ cách đám đông khoảng nửa cây số. Hi vọng họ chưa để ý. Anh gọi hai con cá giấy hộ tống hai bên, chạy thẳng vào.
Ninh chỉ tay về phía cái ghe thúng đang nằm úp mặt trên cát.
- Chiếc Yabota không thể vào quá gần bờ. Phải dùng thúng để chuyển người mới được.
Tôi và Ninh lăn cái ghe về sát bờ nước, chuyển đồ đạc từ trên xe xuống. Hai người đàn bà lo lắng đứng nhìn cái thúng. Tôi cầm tay Thy trấn an:
- Không sao đâu. Tàu vào rất gần, chỉ chèo khoảng một trăm mét là tới.
Sự lo lắng đã trở thành sự thật. Đám đông từ lâu vẫn theo dõi sự di chuyển của ba chiếc tàu, đang đua nhau chạy về phía chúng tôi. Lúc chiếc Yabota đến gần thì đám đông đã lao nhao chực sẵn ở bờ nước. Tôi gọi ra đoàn tàu bảo lùi nhanh ra thật xa.
Vào ngồi lại trong xe, nhìn những người lính lẫn lộn trong đoàn người di tản, tôi hỏi Ninh.
- Hồi ở Newport, mầy có bị EI bơi không?
- Không. Sông Hương tao bơi qua bơi về dư sức, cần gì phải EI. Mà chi vậy.
- Vậy là tốt. Tuần đầu ở lớp bơi, tao nhảy xuống ngon lành. Chờ hoài không thấy nổi lên, huấn luyện viên phải thả sào xuống kéo lên.
Ninh nóng nảy.
- Có kế hoạch gì, nói lẹ đi.
- Trong lúc tao ra thương thuyết với mấy ông rằn ri, mầy gọi máy cho tàu quay trở vào. Bảo anh em vào tư thế tác chiến, sẵn sàng bắn chỉ thiên để cầm chân đám đông lại. Ba bốn trăm người nhào xuống một lần là tàu chìm ngay. Kế họach là cho tàu vào sát, tao chống thúng đưa hai bà ra tàu, mầy thì vẫn ngồi làm mặt tỉnh trong xe. Khi súng bắt đầu nổ, mầy phóng nhanh xuống nước bơi ra ngay. Kế hoạch nghe được không?
Ninh nhìn đồng hồ, gật đầu.
- Đâu có cách gì khác hơn. Gần năm giờ chiều rồi. Phải tính nhanh mới được. Chần chờ, bị bắt làm con tin là coi như tiêu tùng.

Tôi xuống xe đến lân la nói chuyện với nhóm lính. Tôi thuyết phục được họ giữ trật tự trên bãi để đoàn tàu vào bờ. Thy và Hân sợ hải ngồi nép bên mấy xách áo quần, hai tay giữ chặt thành ghe. Cái thúng chòng chành trên mặt nước. Tôi nhảy vào ghe, trấn an hai người đàn bà rồi loay hoay chèo. Cái thúng sau một lúc quay tròn bắt đầu lấy được thăng bằng đi đúng hướng. Chiếc Yabota từ từ tiến về phía bờ. Tôi quăng bớt mấy xách tay cồng kềnh rồi tiếp tục khua tay chèo bằng tất cả sức lực của mình. Ngoái nhìn lại, một phần bải biển như chìm thấp và lùi thật xa trong màu trời chiều đang ngã xám . Ninh vẫn ngồi trong xe. Đám người di tản đứng dạt thành một hàng ngang, chăm chú quan sát chờ đợi. Cách tàu chừng vài mét tôi la lớn cho tàu bắt đầu nổ súng. Giúp Thy và Hân trèo lên tàu trong lúc tiếng súng M60 từ hai chiếc giang đỉnh nổ ran. Đám đông đa số là dân thường sợ hãi nằm úp mặt co quắp trên cát trong lúc luồng đạn đang xé gió trên cao. Nhóm lính thì giận dữ đứng chỉ tay về phía Ninh đang lội nhanh về tàu.
Chúng tôi ngồi trên bong tàu buồn bã, mệt nhoài. Đoàn người di tản trên bãi biển Nam Thọ xa dần, bóng ngưòi chìm trong bóng chiều. Ninh nói như phân bua.
- Phải chi có vài chiếc Yabo Cây nữa để bốc hết người trên bãi thì hay biết mấỵ
Giọng Hân nhão nước mắt, đong đầy lo âu cho ngày tháng trước mặt.
- Họ đi không được, tối ni họ về lại nhà. Mình đi được, không biết ngày mai về mô.

Chiếc Dương Vận Hạm buổi sáng ở bãi biển Mỹ Khê đã nhổ neo. Người Đà Nẵng chậm chân vẫn vô vọng đứng chờ trên bãi. Từ xa, đoàn người là những vệt xám dọc theo bờ cát vương vãi nắng chiều. Hàng dương ủ rủ cúi đầu chắn hướng nhìn về phía Đà Nẵng. Thành phố tôi đã sống những ngày tuổi thơ êm đềm. Nơi tôi lớn lên, bõ đi và đã nhớ quay về. Mùa xuân đầu tiên của đời sống lứa đôi đầy ắp hạnh phúc được vun xới bằng những kỷ niệm chung trong thành phố quê hương đẹp vô ngần. Giờ đây bên kia hàng dương, bên kia bến đò Hà Thân là gia đình, người thân, là ngóng trông chờ đợi. Chúng tôi bõ đi xa để được có nhau mà lòng sao buồn như gió trời.
Ngưòi lính mang ra cho Thy tấm mền và ly trà nóng.
- May quá, ông thầy ra tàu kịp. Tin trên đài cho biết Cọng Sãn đã tiến quân vào Đà Nẵng lúc mình còn loay hoay ở bãi biển Nam Thọ.
Ngày cuối cùng của tháng Ba dập vùi trong giấc ngủ mệt nhọc. Đoàn tàu đi về phương Nam, mênh mông bến bờ, phân vân lòng người. Sự sụp đổ của quân đội VNCH nhanh hơn nước mắt trào. Từng tỉnh lỵ miền Trung lần lượt rơi vào tay Cọng Sãn như những con bài domino buồn bã qụy vào nhau. Tàu chạy qua Cù lao Ré, định vào mua thêm lương thực đã thấy cờ giải phóng treo đầy. Lính bực bội bắn về chiếc xuồng đang bắt loa phóng thanh kêu gọi Hải Quân Ngụy đầu hàng. Xác những giang đỉnh không người, trôi bập bềnh trên sóng, tội nghiệp như thi thể người lính tử thương. Thủy thủ đoàn phải bỏ qua chiến hạm lớn vì tàu hết nhiên liệu. Lúc ngang qua hòn Yến, giang đoàn chỉ còn vỏn vẹn vài chiếc. Cửa biển Quy Nhơn nhộn nhịp chiến hạm lớn nhỏ như một thành phố nổi. Đài chỉ huy của chiến hạm lớn nhất Hải Quân Việt Nam buổi trưa hôm đó đầy sao lấp lánh. Đô đốc họ Hoàng, vị Tư Lệnh Chiến Trường mấy tuần lể cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam, là ngôi sao sáng nhất. Đô Đốc Tư Lệnh và ba bốn ông Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn đang bàn thảo chỉ chỏ trên tấm bản đồ lớn trải rộng trên bàn hải hành. Những đơn vị cuối cùng của Sư Đoàn 22 đang chiến đấu trong tuyệt vọng để mở đường máu thoát ra biển. Trọng pháo từ các chiến hạm bắn về phía Ghềnh Ráng yểm trợ cho đoàn LCM dàn hàng ngang bốc lính di tản. Một đoàn PCF tuần tiểu phía trong vịnh để bảo vệ Tiền Doanh Yểm Trợ Qui Nhơn.
Tôi nhìn những cụm khói pháo kích bốc cao, lo lắng cho người thân quen bên trong thành phố. Hai ngày trước là Đà Nẵng, bây giờ thì Qui Nhơn. Sự chiến thắng của tà thuyết Cọng Sãn đã như vết dầu loang nhanh, không thể ngăn được.
Sáng sớm hôm sau, ghe Duyên Đoàn vào đến Cam Ranh cũng chỉ để kịp chứng kiến thêm một lần nữa cảnh di tản buồn bã của Căn Cứ Hải Quân ở đây. Như một nhân chứng bất đắc dĩ, phải chứng kiến hoài cảnh hấp hối của những căn cứ, thành phố mất vào tay địch đã làm tâm trí tôi kiệt quệ. Đói mệt, chán nãn, tôi dẫn Thy tách khỏi đám đông đang nhốn nháo chạy về phía bến tàu lớn, đi tìm thức ăn. Chúng tôi may mắn tìm thấy một câu lạc bộ bỏ trống. Nước mát và mấy lon trái cây Quân Tiếp Vụ đã giúp hai đứa tỉnh táo. Trên đường xuống bến tàu, xách áo quần nặng hơn vì mấy chai nước ngọt, trái cây hộp tôi lấy ở câu lạc bộ. Thy cười chọc tôi.
- Xấu hổ, đồ đi chôm chỉa.
Đám đông đứng đầy ở cầu tàu, chen chúc trên hạm kiều để lên chiếc Dương Vận Hạm cập dọc theo bến. Đang lo lắng vì người đứng chờ trên cầu tàu quá đông, tôi nghe có tiếng gọi mừng rỡ từ trên tàu. Tài và Lập, hai người thuyền trưởng thời gian ở Đồng Tháp Mười với tôi, rối rít thả dây xuống kéo hành lý lên. Diệp, lúc đó là Hạm Phó, đứng ở đầu hạm kiều thấy tôi cũng mừng rỡ bảo lính gác để chúng tôi lên tàu trước.
Thỉnh thoảng bắt chuyện với Sĩ Quan trên tàu, tin tức chiến sự di tản của Bộ Binh đã không còn làm tôi ngạc nhiên nhưng đau như từng vết chém xé lòng. Đứng nhìn vệt bãi bờ xa dọc theo vùng biển Phan Thiết Phan Rang, tôi liên tưởng đến cảnh hoang tàn của những khu phố chợ sầm uất dọc theo Quốc Lộ Một. Đoàn người di tản vẫn hốt hoảng bỏ nhà cửa thành phố ra đi, ngu ngơ vô vọng. Bóng tối sụp đổ của một cơ đồ quá lớn để người chạy loạn có thể chạy thoát ra khỏi vùng âm u của nó. Cho dù chỉ trong một chốc lát để bắt lại hơi thở mình và kịp khóc chia ly.
Chiếc LST cập bến Vũng Tàu ngày Long Khánh trở thành vùng địa đầu giới tuyến của miền Nam. Lính Sư Đoàn 18 trở thành người đứng đầu cơn gió chướng. Ổ bánh mì trơn ăn ở bến xe Bà Rịa thơm ngon như yến tiệc. Gia đình tôi đã vào Sài Gòn bình an. Nhà càng thêm đông đúc với gia đình ông chú từ Đà Lạt xuống. Trong cảnh đoàn tụ của gia đình chồng, Thy thường khóc lặng lẽ nhớ nhà giờ đây như đã muôn trùng. Thy và hai cô em chồng đến ghi danh tị nạn ở Bộ Văn Hóa Giáo Dục. Ba chị em Giáo Chức Di Tản đứng rưng rưng nước mắt chờ lãnh mỗi người ba chục ký gạo.
Tôi có lệnh phải trình diện đơn vị ở Căn Cứ Cát Lỡ, Vũng Tàu. Giang đoàn không có giang đỉnh và cuộc sống ở đậu thiếu thốn đã khiến quan lẫn lính ai cũng chán nãn. Chúng tôi thay phiên nhau về Sài Gòn rất thường xuyên.
Trời cuối tháng Tư ở Sài Gòn buổi sáng có những cơn mưa nhẹ rất lạ. Người Sài Gòn quen với những cơn mưa lớn thật ngắn đến rồi đi vào buổi chiều. Tin đồn vào những ngày này là một biên giới mới đâu đó ở Vùng Bốn. Sông Tiền Giang, sông Hậu Giang? Mỹ Tho? Cần Thơ? Tin đồn như hơi thở tàn của một thân xác đang hấp hối. Một vài khuôn mặt cũ đang thành lập chính phủ mới để điều đình với Cọng Sãn.
Tuần lễ cuối tháng Tư. Một buổi chiều tôi theo xe đò về Vũng Tàu. Vừa vào đến đơn vị thì hay tin đường Bà Rịa, Long Thành đã bị cắt. Tôi nghĩ đến hoàn cảnh của mình đúng một tháng trước đây ở Hội An Đà Nẵng, lòng lo lắng đến cùng cực. Những rầm rập hổn độn lúc căn cứ chuẩn bị di tản nghe và nhìn rất quen thuộc nhưng ai cũng buồn bã đăm chiêu hơn nhiều. Cuộc hải trình cuối cùng chỉ còn một ngã để đi. Ra biển. Ra đi và không biết sẽ đến đâu.
Đêm trước ngày cuối cùng của tháng Tư. Tôi ở trên chiếc PCF của Võ quốc Dân. Trên tàu còn có vài Sĩ Quan khác ở Hải Đội I Duyên Phòng. Tiếng Châu từ chiếc Coast Guard gọi lúc càng khẩn thiết. Châu chạy chậm lại để chờ chúng tôi qua tàu cùng đi. Chiếc PCF quá mõng manh cho chuyến hải hành này. Dân và tôi đã quyết định đem tàu về Sài Gòn chở gia đình nên sau khi cập tàu để nguời đi nhảy qua, Dân lái chiếc khinh tốc đỉnh quay vào. Sóng cửa biển vật vã gào thét cơn khóc ngất chia lìa. Bóng Châu trong phòng lái lờ mờ vẫy chào. Chiến tranh dài dăng dẵng hơn hai mươi năm nhưng cuộc chia tay của những người lính thất trận giữa canh khuya thì quá vội vã và âm thầm. Ngọn hải đăng Vũng Tàu chớp tắt những vệt sáng cuối cùng soi đường cho đoàn tàu lầm lũi đi xa. Trong bầu trời khuya từng đoàn trực thăng của Hải Quân Mỹ hấp tấp bay đưa người ra biển. Đèn hiệu trên trực thăng nhấp nháy những vệt dài nhảy nhót rối lòng.

Có lẽ chiếc PCF của Dân là chiếc tàu Hải Quân độc nhất chạy ngược về Sài Gòn buổi sáng cuối cùng tháng Tư. Đoàn tàu từ Sài Gòn ra lẫn lộn tàu Việt Nam Thương Tín, Hải Vận Hạm, Dương Vận Hạm đông nghẹt người di tản chen chúc trên bong. Chúng tôi cố gắng không để ý đến những vẫy tay ra dấu quay ra biển, tăng tốc độ phóng nhanh về phía Nhà Bè. Vài người lính của Dân, tuy quyết định ở lại, đã đồng ý giúp sĩ quan chỉ huy của họ lần cuối. Khi tàu về đến Khánh Hội họ sẽ bảo vệ tàu, chờ chúng tôi đem người nhà xuống rồi thầy trò sẽ chia tay. Sông Sài Gòn hôm đó sao quá dài. Tàu chạy mãi mới thấy bóng Căn Cứ Hải Quân Nhà Bè. Lời tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh của ông Tướng mới lên làm Tổng Thống càng làm Dân phóng tàu nhanh thêm. Khi về gần đến bến Khánh Hội, chưa kịp mừng , chúng tôi chợt nghe tiếng súng liên thanh từ bờ sông bắn xối xã về phía tàu. Một người lính bị thương nhẹ ở cánh tay. Qua ống dòm tôi thấy từng ụ súng phòng không chỉa nòng lên trời. Lính chính quy CSBV trong vị thế tác chiến dàn dọc theo bờ sông. Vài chiếc T54, nòng súng kềnh càng, nằm ẩn mình dưới bóng cây. Lính ngồi trên pháo tháp dùng ống dòm theo dõi từng động tác của chúng tôi. Tiến thối lưỡng nan. Tôi nhìn Dân lắc đầu. Lần đầu tiên tôi nghe Dân chưởi thề. Tiếng chưởi bằng giọng Quãng của hắn nghe cũng hiền. Tôi leo lên nóc tàu treo miếng vải trắng lên cột ăng ten.
Dân cập tàu vào bờ. Lính đưa tay chào sĩ quan chỉ huy của họ một lần cuối rồi chia tay nhau vội vã. Dân bắt tay tôi.
- Gia đình tao di tản vào ở tạm nhà bà con ở gần khu Chợ Vườn Chuối, tao về đó rồi tính sau.

Nhìn con tàu và dòng sông chảy ngậm ngùi, lòng tôi già nua một nỗi chán chường. Tôi thua trận. Tôi đầu hàng. Tôi chỉ là tên lính thất trận trong cuộc chiến tranh này.
Buổi sáng cuối mùa xuân năm bảy lăm, âm u cơn mưa nhẹ như sương là dấu vết thời gian buồn bã của sự chung cuộc. Một chấm dứt não lòng. Nhiều đêm trong trại cải tạo, nằm bất động mệt mõi, mắt mở trừng cơn mất ngủ vì những xê dịch trong tâm tưởng tôi vẫn thường nghĩ về buổi-sáng-cuối-cùng đó. Ngoại trừ hình ảnh có màu sắc của đại đội Cảnh Sát Dã Chiến quân phục tác chiến, súng trong tay, đội hình chỉnh tề, dõng dạc bước trên Cầu Chử Y, tất cả chỉ còn là màu đen trắng. Chậm chạp và câm nín. Xác chết ngang chợ Hòa Hưng, trên đường về nhà. Đoàn quân rừng rú đi vào thành phố từ phía Ngã Tư Bảy Hiền. Người Sài Gòn đứng hai bên đường đón chào quân đội nhân dân. Những cánh tay vẫy chào, nghi nan. Đứa con gái quê đi ở, băng trật tự trên áo, tay cầm súng, bận bịu không mục đích trong con hẻm đi vào nhà. Tên hốt rác dạo lên làm chủ tịch phường. Trụ sở cách mạng phường bên cạnh nghĩa địa. Chưa quen với cái ghế gỗ, hắn ngồi loay hoay trước tấm cờ sao may vụng, ký giấy thông hành. Đoàn xe motolova bít bùng chở người đi cải tạo chạy ra khỏi thành phố lúc nửa đêm về sáng. Xe chạy ngang nhà. Qua vết rách nhỏ của tấm vải bạt, con hẻm khuya sâu hun hút. Tất cả như một khúc phim cũ vô ích. Thôi hảy quăng bõ những tháng ngày nhục nhằn đó như quên đi một điều không cần thiết trong đờỉ

Trận mưa lớn như trút nước làm khung cảnh quanh chổ tôi ngồi thay đổi thật nhanh. Trời đang giữa mùa hè. Nguời Sài Gòn thì quá quen thuộc với những chuyến mưa chiều vội đến rồi đi. Ngưòi thợ sửa xe đạp bên kia đường ngồi co ro dưới tấm nhựa căng vội, hút thuốc chờ mưa tạnh. Đám buôn thúng bán bưng ngồi lan tận bậc thềm bên trong quán cà phê, bàn cải chuyện đổi tiền. Dọc lề đường, những người đạp xích lô ngồi ngủ gà ngủ vịt bên trong tấm bạt phủ kín xe.
Chờ trời ngớt mưa, tôi bỏ quán đi nép theo vỉa hè về bến xe lam Ngã Bảy. Đường từ chợ Hòa Hưng về nhà vắng vẽ hàng quán. Cửa hàng nhà nước trống trải mấy chai thuốc gội đầu, xà phòng quốc doanh. Đầu hẻm vào nhà là một quán xép bán cà phê, bàn ghế thấp nhỏ dọn sát ra lề đường.
Hai đứa em hốc hác vì chuyện học hành, sinh kế. Ba anh em ngồi ăn cơm dưới ánh sáng lù mù của ngọn đèn dầu. Ngọc vặn cao tim đèn.
- Anh Hai về mà nhằm đêm cúp điện, tối tăm quá. Mỗi tuần ba đêm.
Tôi cười.
- Cũng đở hơn Phước Long nhiều. Trên đó điện cúp mỗi tuần bảy đêm.
Ẩn, đứa em trai lớn, mời tôi.
- Cơm xong, tụi em đạp xe chở anh xuống Sài Gòn chơi.
- Thôi ra đầu hẻm uống cà phê được rồi. Biết hai đứa đi học chưa về, anh ngồi suốt buổi chiều ở quán Mai Hương cũ. Trời mưa lớn quá.
Hai đứa em dẫn tôi tới trạm công an khu vực trình giấy tờ. Tên công an người miền Bắc loắt choắt, lên giọng hạch hỏi về nơi đến trong giấy ra trại. Hắn ngoằn ngoèo mấy nét chử ký rồi đóng con dấu đỏ loét lên đó.
- Anh Hai về, chơi sang một bữa!
Mùi cà phê và điếu thuốc Thái Lan cùng với cãm giác ấm áp gia đình len lõi vào hồn nỗi vui hiếm hoi. Hai đứa em kể chuyện nhà. Tiếng Ngọc già trước tuổi.
- Muốn sống còn trong xã hội này, vấn đề chính là mình phải sẵn sàng với chuyện bất ngờ, chuyện đau lòng.
Buổi tối trong khu lao động văng vẵng tiếng trẻ nô đùa từ nhà hàng xóm. Tiếng chuông từ hẻm chùa Định Thành ngân nga dỗ dành. Đã xa rồi tiếng kẻng báo giờ ngủ chát chúa phiền phức. Tôi nghĩ tới Thy và bé Đông Xưa. Tôi ngủ ngon lành với giấc mơ đoàn viên đang tới.

Tiếng hàng quán ồn ào trước nhà đánh thức tôi dậy. Nằm yên lắng nghe từng tiếng cười, tiếng cải nhau, tiếng rao mời như lắng nghe nỗi hạnh phúc hồi sinh. Sự sống như nước mạch tươm chảy quanh mình và tôi hứng lấy thỏa thuê.
Hai đứa em đã thức dậy đến trường từ sớm. Trong nhà đồ đạc đơn giản tươm tất thế mà tôi vẫn tìm chuyện dọn dẹp luôn tay suốt buổi sáng. Cảm giác đang-ở-nhà đã khiến tôi vui, ngồi đứng không yên. Trong hộc bàn, tấm hình bé Đông Xưa lẫn với xấp thư nhà. Có lẽ hình được chụp vài tháng sau ngày Thy bồng con lên thăm tôi lần đầu tiên ở Long Khánh. Mái tóc Thy, ngang vai ngày mới cưới, dài trể tràng xuống quá lưng như nỗi đợi chờ. Bầy gà nở vừa kịp ngày con gái lên thăm. Bé Đông Xưa mãi vui với mấy chú gà con để cho ông Bố lạ mặt bồng suốt thời gian một giờ thăm nuôi.
Đang đọc bức thư cũ Thy viết từ Đà Nẵng thăm hai chú em chồng, tôi bỗng hoa mắt không tin sự thật trên trang thư. Đọc đi đọc lại đoạn thư Thy kể ngày giổ đầu và đi thăm mộ bé Xưa mà nghe như mặt đất đang sụp đổ dưới chân mình. Có thể nào như thế được!? Lần lên thăm tôi ở Phước Long, Thy nói vì đường quá xa không thể bồng con theo được. Suốt thời gian thăm nuôi, Thy vẫn vui vẽ kể chuyện bé Xưa. Trong nước mắt, tôi đọc hết xấp thư để phải chấp nhận cái chết của con là điều có thực. Rất thực như lòng thương con, thương chồng mãnh liệt của Mẹ. Đông Xưa bệnh nặng. Thy bồng con vào bệnh viện. Vì lý lịch cải tạo của Bố, Mẹ đành phải bồng con về. Giấu không cho chồng trong tù biết vì sợ chồng làm chuyện thiếu suy nghĩ, Mẹ đã hy sinh ôm lấy chuyện đau khổ một mình. Thương con cho Mẹ và nhớ con giùm cho Bố. Mẹ mảnh mai đã cưu mang gấp đôi nỗi đau mất con để Bố trong những đêm tù còn được những cơn mơ. Nhớ về mùa Xuân xưa đầu cuộc trăm năm và mơ tới vùng đất hồi sinh dậy tiếng trẽ thơ. Bố biết bé Đông Xưa đã không hề rời xa Mẹ. Bố biết bé Đông Xưa sẽ còn mãi trong Bố như hình ảnh của mùa Xuân cuối cùng.
Mùa Xuân cuối cùng. Một quê hương trong tâm tưởng có tiếng võng ru ngậm ngùi...

Con sao sáo nhỏ,
Thường đậu cành mơ.
Hót lại bài thơ
Những ngày đông xưa.

Sáng xuân nằm chờ,
Con sao sáo nhỏ
Về hót bài thơ
Mông mênh bến bờ.

Tìm ra tựa gốc cây mơ
Mới hay nỗi chết bơ phờ bủa vâỵ
Ôi! Con sao sáo nằm đây,
Mãnh hình hài nhỏ, gió mưa đong đầỵ
Cơn đau thương - như heo may
Về đan kín nắng đầu ngày mùa Xuân

Bỏ cỏi trầm luân,
Sáo có bâng khuâng?

Sáng ngày mở mắt gian truân.
Chẳng còn nghe sáo vớt xuân cho đời.
Nỗi buồn kín hai bàn tay,
Không sao che kín mặt ngày đau thương.

Phan thái Yên


Mục Lục


7. Viết Cho Con !


_Ximuoi_(NXVK)


Chưa có bài viết nào dành cho bé Nhật Quân, đây là bài đầu tiên cho con trai có khuôn mặt hiền như "chú Tiểu" của mẹ J


Ngày .. tháng.. năm 2013

Các con yêu dấu,

Hôm nay Nhật Quân đã được 7 tháng tuổi và Tiến Quốc thì 4 tuổi rồi, thời gian trôi qua thật nhanh quá . Mới ngày nào ba mẹ dự định sẽ có các con, mẹ bắt đầu còn ốm nghén, rồi sanh các con, rồi các con lật, tập bò, tập đi, chập chững trên những chặn đường nhỏ, miệng cười chúm chím. Và bây giờ Tiến Quốc đã biết đếm số, đọc sách, chạy nhảy, đàn, hát, leo trèo .. Nhật Quân đã tự ngồi, bò, cười nắc nẻ mỗi khi nghe anh đọc sách, bày trò hay vừa ý, khoái chí điều gì như những chú bé tinh nghịch phá phách. Mẹ như nhìn lại cuốn phim quay chậm trong chặng đường vừa đi qua của gia đình mình. Cám ơn trời phật đã ban các con đến trong đời của ba mẹ. Một món quà vô giá và nhờ có các con ba mẹ có nhiều thứ để nhìn xa hơn, để có được những bài học quí nhất trong đời và để rèn luyện bản thân được vững chải, kiên cường hơn trước những trở ngại của cuộc sống đang đương đầu mỗi ngày.

Nhờ có các con ba mẹ đã biết quí báo hơn nữa giá trị của bản thân mình, lẫn cả tinh thần và sức khỏe, không để những người mượn danh nghĩa bạn bè hay họ hàng xung quanh quấy rối đến cuộc sống của mình, phải càng tự trọnng và có bản lỉnh riêng ...

Nhờ có các con ba mẹ đã biết phải phân xử ra sao với mọi người thân thuộc, bạn bè xung quanh, gần gũi cũng như xa... cũng nhờ có các con để ba mẹ biết được sự hạn chế của mình nên tiếp tục giao tiếp hoặc thôi không liên lạc nữa với những người thiếu tôn trọng người khác, hoặc lợi dụng lòng tốt, sự thương hại của người khác cho dù mình đã cho họ một vài cơ hội... Nhất là không cần gì phải gượng ép, cưỡng cầu vì một lí do bất đắc dĩ chi đó, cho lòng mình được thanh thản và yên vui.

Nhờ có các con, ba mẹ mới biết mình có thể làm được tất cả mọi thứ chứ không vì những hoài niệm không vui của quá khứ làm ảm ảnh, lo mang, để rồi lúc nào cũng nghĩ sẽ bị đi theo vết xe cũ của người đi trước, hoặc không dám tự tin rằng mình sẽ là những ba mẹ yêu con rất mực vô điều kiện, không vì con mình đẹp hay giỏi hơn người, mà vì chính bản chất của con mình vốn là như thế!

Nhờ có các con, ba mẹ mới biết được sự cần thiết của mình phải che chở, bảo bọc các con ra sao để đừng bị người đời, hay họ hàng xem thường, so sánh như một món hàng để rồi làm tổn thương đến tinh thần và tính tự trọng của con.

Và nhờ có các con, mẹ cảm nhận ra một điều "con là trên hết!" Những công danh, sự nghiệp, cạnh tranh trên đường đời của riêng mình không còn quan trọng nữả

Với những điều ba mẹ học, biết được trên bước đường đã đi qua, đang đi và sẽ đi, ba mẹ hy vọng mình sẽ mang đến niềm vui, hạnh phúc cho các con chỉ vì rất đơn giản, các con là con của ba mẹ!

Thương và hôn các con thật nhiều, Tiến Quốc & Nhật Quân!


Cảm xúc bất chợt ngày qua ..

Texas, xứ nóng tình cuồng say .. Summer 2013

***** Rừng xưa thưa lá ... tích xưa chẳng dời *****

_Ximuoi_(NXVK)


Mục Lục


III . Những Bức Thư Tình_____________________________________________

Thư Tình Tháng Này


DHH









Vì lý do kỹ thuật xin tạm nghỉ 1 kỳ. Chân thành cáo lỗi cùng độc giả .





Mục Lục



IV . Hộp Thư Toà Soạn ___________________________________________________



Nguyệt San Giao Muà xin cám ơn những thân hữu đã dóng góp bài vở cho Nguyệt San Giao Muà số 145 . Một số bài khác sẽ được đăng dần vào số tới. Mong mỏi sẽ nhận được những sáng tác của các bạn bốn phương để cho Nguyệt San Giao Muà thêm phần hương sắc trong tương lai.

Mục Lục


Thể lệ để nhận Nguyệt San Giao Muà: 1) Để vào danh sách của NSGM (subscribe), xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
2) Để rút ra danh sách của NSGM (unsubscribe), xin gửi email về GiaoMua@hotmail.com
3. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com 4. Mọi bài vở, đóng góp, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com Nguyệt San Giao Muà Homepage: http://www.GiaoMua.com Thể lệ gửi bài cho Nguyệt San Giao Muà: Mong bạn gửi Bài cho GM theo cách này là tốt nhất : 1. Dùng mẫu chữ Vietnet (VIQR) hay Unicode 2. Viết Hoa chữ đầu của bài và bút hiệu. Ví dụ: Giọt Mưa Trên Lácủa NS Phạm Duy 3. Gửi bài ngay trong email (không kèm file), để cho BBT khỏi mất công download xuống để đọc 4. Gửi tất cả các bài trong 1 tháng 1 lần trong1 email, nếu tiện. 5. Bài vở xin gửi đến trước ngày 25 mỗi tháng 6. Mọi chi tiết, thể lệ, thắc mắc, xin gửi về: GiaoMua@hotmail.com Cám ơn bạn rất nhiều, vì nhân sự có hạn, BBT không thể ngồi đánh máy lại từng đề bài hay bút hiệu.

Địa Chỉ Liên Lạc:

Nguyệt San Giao Muà
P.O . Box 378
Merrifield, Virginia 22116
USA

Trang Nhà 

Web Counters
Web Site Hit Counter

Copyright 2002 by Giao Muà e-magazine and respective authors